nhân hứng cũng vừa toan cất bút

Mời các bạn xem các comment nóng và luận truyện Đại Phụng Đả Canh Nhân ngay dưới khung này. Mời đọc bản dịch Đại Phụng Đả Canh Nhân. Thứ hạng cao nhất từng đạt: Số 1 nguyệt phiếu bảng Khởi Điểm, một mạch từ tháng 2/2021. Ý nghĩa nhan đề và lời đề từ của Người lái đò sông Đó chính là hình ảnh con sông Đà hùng vĩ nhưng cũng đầy thơ mộng. Cùng với đó là vẻ đẹp của con người lao động Tây Bắc trong công cuộc chinh phục tự nhiên. Vậy sau đây là dàn ý và 9 mẫu ý nghĩa nhan đề Nhân hứng cũng vừa toan cất bút, Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào. Nhà thơ thẹn nỗi gì vậy? Thẹn vì tài thơ thua kém hay thẹn vì mình chưa có được nhân cách trong sáng và khí phách cứng cỏi như Đào Tiềm? Lôgic của bài thơ là từ cảnh đến tình, từ tình đến người. Nhân hứng cũng vừa toan cất bút. Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào. - Điểm khác: điểm nhìn của nhân vật trữ tình. Câu 6 (trang 50 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 1 - Cánh diều): Đứng trước cảnh thu, cảm nhận hồn thu khiến cảm hứng làm thơ của thi sĩ bỗng dạt dào. Ông toan cất bút nhưng rồi lại ngập ngừng: "Nhân hứng cũng vừa toan cất bút, Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào." Nhà thơ thẹn với ông Đào, là thẹn điều gì? Site De Rencontre Celibataire Du Web. I. Nguyễn Khuyến – nhà thơ trữ tình làng cảnh Phải nói rằng, trong số hơn 400 bài thơ chữ Nôm và chữ Hán để lại cho đời, Nguyễn Khuyến đã dồn rất nhiều tài năng và tâm huyết vào các sáng tác trữ tình. Xoay quanh đề tài nông thôn, tác giả đã thể hiện thành công bức tranh thiên nhiên, con người và cuộc sống nơi đây. Qua đó, giải bày một cách kín đáo những nỗi niềm băn khoăn, những tâm sự lớn của lòng mình. Chiều sâu tư tưởng kết hợp hài hòa với nghệ thuật thơ sáng tạo, điêu luyện đã đưa những thi phẩm áy lên một vị thế xứng đáng trong thi đàn dân tộc. Do đó, trải qua nhiều biến thiên của thời gian, tên tuổi của Nguyễn Khuyến cùng với những sáng tác ấy vẫn giữ vững ngọn lửa ấm áp trong lòng công chúng yêu thơ. Đã từng đỗ đạt cao, từng ra làm quan hơn 10 năm, thế nhưng bến neo đậu duy nhất cho Tam Nguyên Yên Đỗ trong cuộc đời ông có lẽ chỉ có thể là quê cha, làng Yên Đỗ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Đã từng gắn bó, in đậm trong hồi ức tuổi thơ tác giả, nay làng quê chiêm trũng nghèo lại theo ông trong suốt phần đời còn lại. Điều này đã tạo nên một vốn hiểu biết sâu rộng và tình cảm đẹp đẽ của nhà thoa với cảnh vật nông thôn. Suốt cuộc đời mình, Nguyễn Khuyến luôn sống chan hòa, gần gủi, chân tình với những người nông dân nghèo khổ. Ông xứng đáng là nhà thơ của nông thôn với những bài thơ miêu tả tinh tế, chân thực những vẻ đẹp bình dị của nông thôn, đúng như lời nhận xét của Nguyễn Lộc ” Trước Nguyễn Khuyến, trong văn chương Việt Nam thỉnh thoảng có những tác phẩm viết về nông thôn, những hình ảnh của nông thôn trong văn học nói chung còn mờ nhạt. Có thể nói, với Nguyễn Khuyến lần đầu tiên nông thôn Việt Nam mới thực sự đi vào văn học “. Con người quê ông không chỉ phải đốí đầu với cái đói, cái nghèo, mà còn luôn luôn bị đe dọa bởi các thiên tai dữ dội bất ngờ kéo đến Quai Mễ Thanh Liêm đã vỡ rồi Vùng ta thôi cũng lụt mà thôi Gạo năm ba bát cơ còn kém Thuế một hai nguyên dáng chữa đòi. Nuớc lụt Hà Nam Những trận lụt tai hại cùng với chính sách sưu cao, thuế nặng đã đẩy những người dân nơi đây đến độ cùng quẫn, buồn đau. Câu thơ như một tiếng thở dài, một sự cam chịu, chấp nhận vào cơn bão của cuộc đời. Nhà thơ không thi vị hóa sự việc, ngược lại đã được thể hiện rõ nét và chân thực tâm lý, nỗi lo lắng của người nông dân. Tài tình hơn, cũng miêu tả sự tàn phá dữ dội của cơn lũ nhưng Nguyễn Khuyến đã có phát hiện rất mực tinh tế Bóng thuyền thấp thoáng dờn trên vách Làn sóng long bong vỗ trước nhà. Nuớc lụt Hà Nam Từ một điểm nhìn khác, tác giả đã phát hiện ra một sự vận động khác lạ của cảnh cảnh vật xung quanh “thấp thoáng”, “long bong” đều là những từ láy rất gợi tình khiến cho mọi vật dường như cũng chập chờn, luợn sóng trong cơn lũ. Trước khi nước rút xuống chính nhà thơ đã tìm ra một sự thích thú xua tan nỗi lo âu trong quãng thời gian đằng đẵng. Là một bậc Đại Nho danh tiếng nhưng Nguyễn Khuyến không tự đối lập mình với mọi người như Nguyễn Công Trứ. Trái lại, tấm lòng thi nhân luôn tìm đến với những cảnh sống chật vật, eo hẹp của lớp dân quê dân cày, luôn lấy hồn mình để hiểu hồn ngưòi. Cảnh sinh hoạt nông thôn khó khăn đã đựoc nhà thơ nêu bật trong “Làm ruộng” Phần thuế quan thu, phần trả nợ Nửa công ở đợ, nửa thuê bò Sớm trưa dưa muối cho qua bữa Chợ búa dầu chè chẳng dám mua. Có được mảnh ruộng để cày cuốc, gieo hái đã khó với người nông dân lắm rồi, lại thêm những khoản thuế má nợ nần, tiền công, tiền thuê như gánh nặng trĩu đè cả hai vai người lao động và để tiếp tục sống, họ đã phải lo lắng chạy vạy khắp nơi. Tuy nhiên đời sống của người nhân nghèo không nhờ thế mà thảnh thơi, an nhàn. Bởi sau một vụ mùa, người nông dân bị ám ảnh, lo sợ mất mùa lụt lội Năm nay cày cấy vẫn chân thua Chiêm mất đằng chiêm mùa mất mùa. Chốn Quê Nhưng cuộc sống ấy cũng không thiếu đi nét dịu dàng với cái vui của hội hè ngày tết Trong nhà rộn rịp gói bánh chưng Ngoài cửa bi bô rủ chung thịt Cảnh Tết Dẫu chỉ là một chút vui mọn trong những ngày rộn ràng đón lễ tết nhưng dường như không ai để tâm đến cái nghèo cái khổ nữa. Mọi nhà rộn rịp cùng chung nồi bánh chưng truyền thống, âm thanh vui vẻ, xôn xao đã xua đi bầu không khí ảm đạm của cuộc sống khốn khó thường ngày. và chính nhà thơ cũng đang say sưa giữa không khí chan hòa tình thân ái xóm làng Chú Đáo xóm đình lên với tớ Ông Từ lại cùng ta Cảnh Lên Lão Chẳng may gặp năm mất mùa thì tết nhất cũng u ám thê thảm hơn Dở trời mưa bụi còn hơi rét Nếm rượu tường đều đuợc mấy ông? Hàng quán người về nghe xao xác Nợ nần năm hết hỏi lung tung Chợ Đồng Cái “xao xác” của phiên chợ nghèo cũng chính là xao xác trong lòng nhà thơ. Gắn bó với con người nơi đây, bản thân tác giả cảm thấy xót xa trước cảnh sống nghèo nàn mà chính mình cũng không thể làm gì hơn. Đọc những vần thơ trên của Nguyễn Khuyến, hình ảnh người nông dân hiện lên rõ nét hơn bao giờ hết, trước mắt chúng ta cuộc sống xơ xác tiêu điều, nghèo khổ đến mức nghẹt thở của người nông dân vùng chiêm trũng chưa lúc nào lại ám ảnh đến vậy. Như một thước phim quay chậm với những góc quay cận cảnh có, viễn cảnh có… Mỗi bài thơ viết về người nông dân của Yên Đỗ đã cho ta cái nhìn đa chiều, trọn vẹn, đầy đủ hơn nó không chỉ là cơ cảnh của riêng người nông dân Bắc Bộ mà còn là điển hình cho cả một tầng lớp của dân tộc ta lúc bấy giờ. Qua đó, ta thấy cái nhìn độ lượng của tấm lòng nhân hậu, chan chứa tình yêu thương của cụ Tam Nguyên với mọi người xung quanh. Cuộc sống đói khổ không trói được tấm lòng của nhà thơ, không thể tầm thường hóa nhân cách đẹp đẽ, cao khiết của một bậc Đại Nho như thế. Chính vì luôn trân trọng tình cảm của mọi người, từ người anh vợ, ông hàng thịt đến anh thợ rèn… Cho nên đối với những người bạn thân thiết, với tri kỉ của mình, Nguyễn Khuyến càng chân thành trân trọng hơn. Cao Bá Quát từng nói “Xưa nay nỗi khổ của người ta không gì bằng chữ tình, mà cái khó ở đời không gì bằng sự gặp gỡ”. Nên khi tìm được người hiểu mình, tìm thấp được sự tri âm trong tình bạn Nguyễn Khuyến đã rất chân thành đón bạn Đã bấy lâu nay bác tới nhà Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa. Áo sâu nước cả, khôn chài cá Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà. Cải chửa ra cây, cà mới nụ Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa. Đầu trò tiếp khách trầu không có Bác đến chơi đây ta với ta. Bạn đến chơi nhà Phảng phất trong “Bạn đến chơi nhà” có những điểm tương tự như “Khách chí” khách đến của thi nhân Đỗ Phủ xưa. Thi nhân Đời Đường đã mượn cái nghèo của mình để nêu bật tính bầu bạn cao đẹp Mâm cơm vì chợ xa nên thiếu món ăn Rượu vì nhà nghèo chỉ có thứ củ chưa lọc Ta hãy cùng ông lão bên hàng xóm đối ẩm Qua hàng rào hết rượu sẽ lấy thêm. Nguyễn Khuyến đã khẳng định chắc chắn tình bạn tự nó đã là một bữa tiệc tinh thần không cần đến của cải vật chất xa hoa, phù phiếm. Chỉ cần hiểu nhau, có thể sẻ chia bầu tâm sự cho nhau ấy đã là “bạn quý” rồi. Hay như Ức Trai đã nói với bạn “Hai bữa mừng nhau một mặt không, vui sướng nhìn nhau cũng đủ no rồi!”. Tình bạn nồng thắm gắn bó của Nguyễn Khuyến đã lí giải cho sự đau đớn tột cùng của nhà thơ khi đột ngột hay tin bạn mình qua đời “Khóc Dương Khuê” Bác Dương thôi đả thôi rồi Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta. Sự ra đi đường đột của người bạn thân khiến tác giả sửng sốt bàng hoàng, nỗi đau quá lớn, nhà thơ chỉ kịp than lên như muốn níu giữ lại nhưng đành chấp nhận thực tế đau đớn ấy. Nghĩ đến bạn bao nhiêu kỷ niệm trong ký ức giờ đây như sống lại hàng chục năm của những gì gắn bó giữa nhà thơ và bạn ùa về. Tình bạn ấy sẽ còn sống mãi trong lòng nhà thơ và mãi vẹn nguyên, đẹp đẽ trong tâm hồn độc giả. Nguyễn Khuyến là nhà thơ của làng cảnh Việt Nam. Qua những bài thơ trữ tình trong trẻo, tác giả dựng nên một bức tranh thiên nhiên nông thôn rất tinh tế, xinh xắn. Yên Đỗ đã khéo thu được những nét điển hình của buổi trưa thôn quê vào trong những câu thơ thật gọn Chuông trưa vẳng tiếng người không biết Trâu thả sườn non ngủ gốc cây. Nhớ cảnh chùa Đọi Một bức tranh quê yên ả, thanh bình. Hình ảnh chú trâu hiền lành đang nghỉ ngơi trên sườn cỏ xanh tốt dưới bóng mát của cây xanh đã thu lấy mảnh hồn của nông thôn Việt Nam. Quê hương ai cũng có những nét riêng và trong tâm trí nhà thơ, buổi trưa hè ấy đã sưởi ấm cả một cõi xôn xao trong lòng. Đôi khi chỉ là một thoáng rùng mình trong cái rét đầu năm cũng làm ta xao xuyến Dở trời mưa bụi còn hơi rét Chợ Đồng Và bồi hồi xúc động trước cảnh nước lụt tràn ngập mênh mông Tiếng sáo vo ve chiều nước vọng Chiếc thuyền len lỏi bóng trăng trôi Kỷ niệm sống chung với lũ ngay từ thuở bé đến khi lớn khôn vẫn vẹn nguyên. Chỉ ở vùng đồng chiêm trũng như quê Yên Đổ mới có những hình ảnh sống động như vậy. Cảnh quê hương có lúc là chốn vườn cũ với những cảnh vật bình dị đơn sơ Vườn Bùi chốn cũ Bốn mươi năm lụ khụ lại về đay Trông ngoài sân đua nỡ mấy chòi cây Thú khâu hác lâm tuyền âu cũng thế Bành Trạch cầm xoang ngâm trước ghế Ôn Công rượu nhạt chuốc chiều xuân Ngọn gió đông ngoảnh lại lệ đầm khăn Tình thương hải tang điền qua mấy lớp Người chớ giận Lỗ hầu chẳng gặp Như lơ phơ tóc trắng lại làm chi Muốn về sao chẳng về đi? Bùi Viên cựu trạch ca – dịch Cái cảnh chốn cũ ấy đã làm lay động biết bao trái tim, bao tâm hồn của người trong cuộc. Cảnh vật nhỏ bé, chân quê có vẻ như quê mùa ấy mới đúng là cảnh quê ông. Không cần tô vẽ màu mè, đơn giản hơn, chỉ phác họa những đường nét tinh túy nhất của hồn quê, ấy là cái tài của Nguyễn Khuyến. Những hình ảnh dân dã qua lăng kính của thi nhân trở nên tinh tế, lấp lánh mà chân thực, sống động vô cùng. Nhưng có lẽ nổi tiếng nhất và cũng là tiêu biểu nhất cho vùng quê chiêm trũng Bắc Bộ chính là chùm ba bài thơ thu “Thu Vịnh”, “Thu Điếu” và “Thu ẩm”. Mùa thu ở Miền Bắc với tiết trời trong mát dịu nhẹ như một thiên sứ hiền lành hòa giải giữa cái oi nồng của mùa hạ và mưa dầm gió bắc của mùa đông. Tâm hồn con người vì thế mà góp phần thư thái, nhẹ nhõm hơn. Và bởi lẽ “Thu là thơ của đất trời. Thơ là thơ của lòng người” cho nên với các nhà thơ mùa thu là mùa của cảm xúc, của những nổi niềm thương nhớ không nguôi. Tuy nhiên, vì khoảng cách thời đại, thi phẩm thu của các thi nhân cũng khác nhau rất nhiều. Thơ thu Nguyễn Khuyến là thơ của làng cảnh Việt Nam đậm đà chân thực dù có gửi gắm ít nhiều tâm sự. Trong khi đó các nhà thơ mới như Huy Cận, Xuân Diệu hay Lưu Trọng Lư chỉ mượn cảnh thu, sắc thu, màu thu để gửi gắm tâm trạng riêng tư. Đương thời Nguyễn Khuyến cũng đã sáng tác nhiều bài thơ thu bằng chũ Hán như “Thu nhiệt”, “Y thu”. Thế nhưng nức danh nhất vẫn chính là chùm ba bài thơ thu ấy. Mỗi bài một vẽ hợp lại một bức tranh thu toàn bích, xứng đáng đạt ngôi vị quán quân trong những bức tranh phong cảnh làng quê Việt Nam thời Trung đại. Chùm thơ thu mang đậm hồn quê xứ sở. Tất cả những ai đã từng gắn bó với một vùng quê đất Việt, hẳn không thể kìm lòng xúc động trước những cảnh vật thân thuộc đến thế. Cảnh nông thôn bình thường, thân mếm với năm gian nhà cỏ đơn sơ nhưng vô cùng gần gũi Năm gian nhà cỏ thấp te te Ngõ tối đen sâu đó lập lòe Thu ẩm Nơi thi nhân đang uống rượu làm thơ chỉ là ngôi nhà nhỏ đơn sơ, bình dị, thôn dã được lợp bằng mái rạ thấp te te. Nếu đó là thư phòng tao nhã hay lầu son gác tía hoa lệ thì bài thơ đã không sống đến tận hôm nay. Phải là nhà cỏ mới là vùng quê Bắc Bộ. Vùng quê chiêm trũng ấy còn có những chiếc ao bèo nhỏ nhắn trước nhà. Là nơi chứa đựng những dòng nước mát trong Ao thu lãnh lẽo nước trong veo Thu điếu Và dưới ánh trăng mờ ảo đêm khuya, nó như gợi tình gợi ý hơn với những chuyển động lạ kỳ Làng ao lóng lánh bóng trăng loe Thu ẩm Nhà thơ đã nhìn trăng qua áo mới có vẽ đẹp lóng lánh như thế. Trăng từ trong áo hắt ánh sáng lên vạn vật xung quanh, tạo ra những chùm sáng “loe” như thế. Một đề tài mòn cũ, đã được Nguyễn Khuyến thổi vào một hơi thở mới, một sức sống mới đầy sáng tạo. Những con đường nho nhỏ, những bụi tre khóm trúc thực sự là những hình ảnh tiêu biểu, đặc trưng của vùng quê Bắc Bộ Cần trúc thơ phơ gió hắt hiu Thu vịnh Ngõ trúc quanh co khách vắng teo Thu điếu Cành trúc như mang trong mình linh hồn, sức sống. Những búp lá non điểm xuyết trên cành trúc cong cong như một chiếc cần câu rất mềm mại, thanh thoát, đầy chất tạo hình. “Cần trúc” đã lột tả được cái hồn, cái thần của cảnh vật, là hình ảnh quen thuộc gợi lên phong vị riêng của vùng đồng bằng Bắc Bộ. Những con đường nho nhỏ quanh co dẫn vào từng mái nhà cỏ thật duyên dáng và xinh xắn. Mùa thu đến mang theo từng cơn gió lạnh hắt hiu với màn sương khói hư ảo. Tất cả hòa quyện đan xen vào nhau tạo nên một hơi thu quyến luyến. Ấn tượng nhất chính là bầu trời trong xanh, cao vòi vọi mà chỉ duy vùng Bắc Bộ mới có vào tiết thu Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao Thu vịnh Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt Thu điếu Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt Thu ẩm Ba lần Nguyễn Khuyến miêu tả gam màu xanh tuyệt đối ấy. Từ “xanh ngắt” không chỉ gợi sắc màu cụ thể mà còn gợi chiều sâu vòi vọi, chót vót của bầu trời. Không gian xung quanh dường như thoáng đãng, tươi sáng và thanh thoát hơn nhiều. Đó là vẻ đẹp thật sự của bầu trời mùa thu ở nông thôn Việt Nam, không phải vừa mới xuất hiện mà vốn đã có từ trước nhưng bây giờ mới được đem vào thơ, được Nguyễn Khuyến gạt bỏ những ước lệ tượng trưng. Không chói chang như sắc xanh trời hạ, màu xanh này gợi sự thanh nhẹ thư thái của lòng người. Thi sĩ Xuân Diệu khi miêu tả sắc thu cũng từng viết Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá Thơ duyên Đây là gam màu gợi sự sang trọng, diểm lệ, dịu mát và tươi tắn khác với sắc màu của nông thôn Việt Nam. Nhưng không vì thế mà giá trị của hai gam màu ấy bị sụt giảm, trái lại càng làm phong phú bức tranh thu trên thi đàn dân tộc. Một chiếc ao bèo, một hàng giậu thưa, một con ngõ nhỏ, những khóm tre bụi trúc, chiếc thuyền nan bé tẻo teo, biết bao cảnh vật thật bình dị mà đẹp đến nao lòng, gợi nhớ khôn tả. Hơn nữa, bằng tài nghệ bậc thầy trong sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Khuyến, những câu thơ như linh động hơn, co duỗi nhịp nhàng. Ngôn ngữ trong sáng, vô cùng mộc mạc bình dị, không hề thấy dấu vết của sự gọt giũa, công phu nhưng lại giàu sức gợi. Người đọc có cảm giác trong thơ ông có sự hôn phối, hòa hợp giữa ngôn ngữ bác học và ngôn ngữ bình dân. Kết hợp với khả năng quan sát vô cùng nhạy bén và tinh tế nhưng biến thái tinh vi của tạo vật Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo Thu điếu Thi nhân không đem đến cho ta những điều hoàn toàn mới lạ mà chỉ nhỏ nhẹ nhắc ta những điều thường gặp một cách thấm thía và sâu sắc hiếm có. Ông cha ta thường nói “Thi dĩ ngôn chí” quả không sai. Cảnh vật thiên nhiên không bao giờ chỉ là sự minh họa giản đơn cho tài năng của người nghệ sĩ mà quan trọng hơn những hình ảnh thơ là chiếc chìa khóa để chúng ta mở cửa tâm hồn tác giả. Giãi bày bộc lộ tâm sự cũng là một nội dung lớn trong thơ trữ tình Nguyễn Khuyến. Trong ba bài thơ thu, nhà thơ Yên Đổ đã bôc lộ kín đáo những tâm sự u uất trong lòng Hai câu kết bài “Thu vịnh” là sự cố nén tủi thẹn về chính mình Nhân hứng cũng vừa toan cất bút Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào “Nhân hứng” rồi lại “Nghĩ ra” đó là sự đối lập giữa chủ quan và khách quan, giữa ước mong với hiện thực, đó là một sự bất như ý của con người. Nhà thơ nói “Nhân hứng” là ca ngợi mùa thu đẹp và nên thơ. Thế nhứng “toan cất bút” làm thơ rồi lại “thẹn”. Thẹn với Đào Tiềm một nhà thơ nổi tiếng của Trung Quốc đời Tấn. Ông nổi tiếng vì thơ hay là một lẽ, lẽ khác còn nổi tiếng vì việc sau một năm làm quan ở Bành Trạch đã rũ áo từ quan bởi không chịu vì ba đấu thóc mà phải cúi lưng. Nguyễn Khuyến tự thấy thẹn là bởi tâm hồn ông đang mang nặng nổi u hoài, bởi ông chưa thực sự hài lòng vì mình vẫn rất xót xa. Ông cáo quan về ở ẩn là vì bất lực trước vận nước. Tâm sự ấy vừa đáng thương vừa đáng trọng. Tấm lòng nhà thơ luôn hướng về nhân dân đất nước. Tấn bi kịch nhàn thân mà chẳng nhàn tâm ấy sẽ mãi theo ông trong những năm cuối đời từ khi trở về vườn Bùi chốn cũ đến khi qua đời. Ở “Thu Vịnh” và “Thu điếu” còn thi thoảng vang lên đôi chút âm thanh của tiếng ngỗng lạc đàn, tiếng lá rơi, tiếng cá đớp động dưới chân bèo. Đến “Thu ẩm”, tịnh không có một tiếng động nào dù chỉ thoảng qua mà đó là cuộc sống nông thôn, sống giữa bao nhiêu con người vùng quê. Một mình uống rượu để giải sầu nhưng đã uống đến say nhòe mà nổi sầu muộn đâu có vơi. Càng say càng tĩnh, càng thấm thía nỗi lòng u uất. Tự cho mình là túy ông, nhưng đã bao giờ Nguyễn Khuyến say vì rượu Túy ông ý chẳng say vì rượu Say vì đau nước thẳm với non cao Uống rượu ở vườn Bùi Bởi thế “ Mắt lão không gầy cũng đỏ hoe” kia không ngoài nét buồn vì cảnh nước mất nhà tan, vì bất lực của bản thân mình. Lựa chọn lui về sống ẩn dật nhưng tấc lòng của Nguyễn Khuyến vẫn luôn hướng đến vận mệnh của đất nước. Ông cảm thấy tuỉ thẹn vì mình là một trí thức đại thần mà đành bất lực trước thời cuộc Sách vở ích gì cho buổi ấy Áo xiêm nghĩ lại thẹn thân già Ngày xuân răn con cháu Và cho đến khi nghĩ là mình sắp từ giã cuộc đời, trong bài “Di chúc” ông vẫn trăn trở Ơn vua chưa chút báo đền Cúi trong hổ đất, ngữa lên thẹn trời Một con người luôn tận tụy vì nước vì dân như cụ Tam Nguyên thật đáng quý. Làm quan thì thanh liêm, cương trực, thẳng thắn. Lúc chỉ là một kẻ thường dân vẫn luôn dõi theo vận mệnh dân tộc. Tâm sự ấy suốt cuộc đời Nguyễn Khuyến luôn mang theo và mãi mãi như tiếng cuốc kêu canh khuya Khắc khoải sầu đưa giọng lững lơ Ấy hồn thực đé thác bao giờ Năm canh máu hảy đem hè vắng Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ Có phải tiệc xuân mà đén gọi Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ Thâu đem ròng rã kêu ai đó Giục khách giang hồ dạ ngẩn ngơ. Cuốc kêu cảm hứng Qua điển cố vua Thục mất nước, hóa thành chim cuốc kêu thán đêm ngày, bài thơ đã khơi gợi tâm sự đau xót trước cảnh vong quốc. Mượn hình ảnh con cuốc kêu hè, nhà thơ đã cực tả nỗi đau rỉ máu máu chảy, nổi buồn nát ruột tan hồn hồn tan của chính bản thân mình trước cảnh điêu linh của nước tổ. Tiếng kêu ấy cứ vang mãi trong đêm khuya, cô độc và lẻ loi. Điều này càng làm tăng gấp bội nỗi buồn đau của Nguyễn Khuyến. Xuân Diệu đã rất hiểu tâm sự ấy…”chúng ta thường nghe da diết, ám ảnh, chì chiết một tiếng chim kêu có sắc đỏ, khóc nức nở, gào thảm thiết, tiếng kêu có máu, tiếng huyết kêu mất nước! Nhớ nước” thơ văn Nguyễn Khuyến. Sức lay động lòng người của tiếng lòng nhà thơ cứ thế trường tồn mãi với thời gian. Cảm phục, trân trọng biết bao những tấm lòng trong thiên hạ! Có lẽ điều an ủi nổi đau đớn cửa Nguyễn Khuyễn ấy là thái độ bất hợp tác của ông với quân giặc. Với ông, danh vị, lợi lộc chỉ là những thứ phù phiếm, phỉnh phờ, lừa gạt của bọn tay sai. Vì thế, ông lại lui về quê, từ bỏ chốn quan trường nhiễu nhương, để nêu cao khí tiết. Thái độ ấy ông thường hay biện bạch qua hình ảnh “ mẹ Mốc” tuy nhan sắc tuyệt trần nhưng giả vờ điên dại để dành trọn tâm tư cho chồng con xa vắng So danh giá ai bằng mẹ Mốc Ngoài hình hài gấm vốc chẳng thèm ra Tấm hồng nhan đem bôi lấm xóa nhòa Làm thế để cho qua mắt tục. Mẹ Mốc Khi Nguyễn Khuyến tự ví mình như một vương phu nghèo đói bị người ta cám dỗ nhưng vẫn giữ kiên trinh với người cố phu Vốn xưa cha mẹ dặn lời Từ hôn chi để kẻ cười người chê Mụ hỏi mụ thương chi thương thế Thương thì hay nhưng kế không thay Thương thì gạo vải cho vay Lấy chồng thì gái già này xin van. Gái góa Tựu chung lại, những tâm sự, nỗi lòng của nhà thơ dù rất kín đáo nhưng đã thể hiện sâu sắc cá tính của bản thân. Trước thời cuộc điên đảo, con người ta có thể không trực tiếp phục vụ đất nước nhưng vẫn hoàn toàn có thể bộc lộ những tình cảm, tấm lòng với đời sống và con người trong đó. Như vậy, với những bức tranh sinh động, tinh tế về thiên nhiên, làng mạc, con người nơi thôn dã và tâm sự trước thời vận đất nước, thơ trữ tình của Nguyễn Khuyến đã chiếm một vị trí quan trọng trong sự nghiệp sáng tác của nhà thơ. Đa dạng về nội dung, phong phú, đặc sắc về hình thức thể hiện, những bài thơ trong trẻo chân tình sẽ sống mãi trong lòng chúng ta. Và thơ văn của Nguyễn Khuyến đã phản ánh đúng con nhười thi nhân giản dị, tự nhiên, thâm trầm, tinh tế và sâu sắc. Quả là “ Một người nghệ sĩ chân chính trước hết phải là một con người chân chính”. Trải qua bao thăng trầm của thời đại, đến nay chúng ta vẫn thấy bồi hồi và cảm phục trước một con người như thế. II. Nguyễn Khuyến nhà thơ trào phúng Thời kỳ văn học trung đại kết thúc với thành tựu cuối cùng rất rực rỡ của hai cây bút trào phúng Tú Xương – Nguyễn Khuyến. Nếu Tú Xương mang đến cho người đọc những câu thơ trào phúng cay độc, bốp chát thì Nguyễn Khuyến lại mang đến một hồn thơ nhẹ nhàng, hóm hỉnh mà thâm thúy. Bằng những sáng tác thấm đẫm chất trào lộng, Nguyễn Khuyến thực sự đã bộc lộ được tài năng trào phúng bậc thầy của mình. Nhắc đến cụ Tam Nguyên Yên Đỗ có lẽ điều người ta nghĩ đến trước hết chính là những bài thơ trữ tính thật hay, thật tinh tế viết về thiên nhiên vùng đồng bằng chiêm trũng Bắc Bộ, về tình cha con, vợ chồng, bè bạn, xóm giềng rất chân thành, thắm thiết. Nguyễn Khuyến là nhà thơ số một của làng cảnh Việt Nam. Cảnh sắc trong thơ ông thanh sơ, đẹp và phơn phớt một sắc buồn từ cõi lòng mang tâm sự thời thế. Chùm ba bài thơ thu đã trở thành “quán quân” về thơ thu Việt Nam xưa nay chính vì lẽ đó. Hơn thế Nguyễn Khuyến còn có thể được xếp vào hàng ngũ những nhà thơ hàng đầu đất Việt khi viết về tình bạn, tình tri âm tri kỷ Nguyễn Khuyến và Dương Khuê như trong thi phẩm Khóc Dương Khuê” đã thể hiện liệu có còn gì sâu sắc hơn? Tóm lại, nói Nguyễn Khuyến là nhà thơ trữ tình xuất sắc chắc hẳn chẳng có gì phải bàn cãi. Thế nhưng không dừng lại ở đó, Nguyễn Khuyến đã thật sự gây ấn tượng mạnh mẽ với người đọc bởi những vần thơ mang tiếng cười rất đặc sắc nhẹ nhàng, kín đáo mà lại thâm thúy, chua cay. Tiếp cận với những sáng tác trào phúng của Nguyễn Khuyến ta mới thấy hết cái đặc sắc, cái giọng điệu riêng của ngòi bút trào phúng này. Phải thấy rằng đối tượng trào phúng trong thơ Yên Đỗ hết sức phong phú, đa dạng. Ông cười bọn quan lại tham quan vơ vét hại dân, cười bọn hãnh tiến nhố nhăng, cười cái bi hài của nền Hán học cuối ngày tận số, cười cả Vua, cả Tây và cười cả chính mình. Chính vì thế mà tiếng cười mang những sắc thái khác nhau. Khi để bông đùa cùng bạn, tiếng cười Nguyễn Khuyến thật hóm hỉnh, thâm mật, duyên dáng Đã bấy lâu nay bác tới nhà Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa Ao sâu nước cả, khôn chài cá Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà Cải chửa ra cây, cà mới nụ Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa Đầu trò tiếp khách trầu không có … Bạn đến chơi nhà Với sự hào hiệp và tấm lòng chân tình của mình, nhà thơ muốn dành những gì sang trọng nhất, ngon lành nhất để tiếp đãi bạn. Thế nhưng ước muốn đó không thể thực hiện được, oái ăm thay cái gì cũng có mà thành ra không có gì vì tất cả đang ở dạng “tiềm năng” còn non tơ nên không thể thu hái được, đến cả miếng trầu làm đầu câu chuyện cũng không có nốt. Thật ra tác giả đang khoe sự giàu sang hay đang giải bày sự thiếu thốn? Có lẽ là cả hai song điều đáng nói ở đây là nhà thơ đã sử dụng bút pháp cường điệu hóa rất đặc sắc, sự thiếu thốn đạm bạc của gia cảnh được cường điệu một cách tối đa và sự giàu có sang trọng cũng cường điệu không kém với mục đích đùa vui với bạn đồng thời tỏ rõ được tấm chân tình của mình. Chính sự đối lập giữa giàu sang và đạm bạc trong cái nhìn mang tính phóng đại, hài hước của nhà thơ đã tạo ra sự hài hước rất riêng của Nguyễn Khuyến. Tuy nhiên, sắc thái đẫm nét nhất trong tiếng cười của Nguyễn Khuyến chính là cười tâm huyết, cười ra nước mắt, cười với giọng nhẹ nhàng mà không kém phần chua cay. Tiếng cười ở đây không phải để đùa vui nữa mà là để phê phán, để tố cáo hiện thực xã hội. Đối tượng trước hết trong xã hội cần phải lên án, vạch trần chính là bè lũ thống trị, bọn tham quan Tôi nghe kẻ cướp nó lèn ông Nó lại lôi ông đến giữa đồng Lấy của đánh người, quân tệ nhỉ Xương già da cóc có đau không? Bây giờ trót đã sầy da trán Ngày trước đi đâu mất mảy lông Thôi cũng đừng nên ki cóp nữa Kẻo mang tiếng dại với phường ông. Hỏi thăm quan tuần mất cướp Bằng những câu hỏi thăm rất đỗi tận tình, một người quan tuần bị mất cướp lại còn bị kẻ cướp đánh cho, nhà thơ đã khiến chúng ta bật cười bởi chính giọng điệu “tử tế” ấy. Nhà thơ đã “hỏi thăm” đã nói những điều lẽ ra theo phép lịch sự thông thường thì không nên hỏi, không nên nói, hay có hỏi, có nói thì phải hỏi, phải nói một cách tế nhị, đằng này ông lại hỏi thẳng, nói thẳng. Những câu thơ cứ như những mũi dao nhọn cứ ngoáy mãi vào một vết thương nên càng ngoáy càng đau. Ban đầu nhà thơ còn nói ỡm ờ, chế dễu nhưng về sau thì đả kích thật sự. Ông quan “đáng kính” chỉ như một món đồ để cho bọn cướp lôi từ nơi này sang nơi khác lại còn bị đánh cho “sầy da trán”, thật là đau xót! Nhà thơ còn tỏ ý thông cảm với tuổi già của tên quan để rồi sau những lời hỏi han sức khỏe ấy, nhà thơ thốt ra lời khuyên “thôi cũng đừng nên ki cóp nữa”. Nghe thật tử tế làm sao! Thật ra cả bài thơ tác giả chỉ nhắm một mục đích duy nhất là cho người đọc bông đùa thỏa thích trước sự “xui xẻo” của tên quan để rồi chốt lại lời châm biếm đả kích gay gắt về cái thói tham lam, hà tiện, bủn xỉn của không chỉ tên quan tuần mà các tầng lớp quan lại thời bấy giờ. Mượn thành ngữ “ki cóp cọp ăn’ của dân gian xưa, Nguyễn Khuyến đã giúp ta hiểu sâu sắc về bộ mặt thật của bọn quan lại đương thời, những “nạn nhân” bị cướp thứ tài sản đã đi cướp! Hiện thực xã hội xấu xa cần phải vạch trần không chỉ ở bè lũ quan lại mà ở cả hiện tượng lố lăng trong buổi giao thời. “Hội tây” được viết để lên án hiện tượng ấy. Mở đầu bài thơ Nguyễn Khuyến giới thiệu ngay khung cảnh nhộn nhịp của ngày hội Kìa hội thăng bình tiếng pháo reo Bao nhiêu cờ kéo với đèn treo. Quả là ngày hội lớn của người Pháp trên đất Việt, có âm thanh rộn rã của tiếng pháo, có màu sắc lấp lánh của đèn treo, cờ kéo… Cả con người trong ngày hội ấy cũng rất háo hức Bà quan tranh ngất xem bơi trải Thằng bé lom khom ghé hát chèo Cậy sức, cây đu nhiều chị nhún Tham tiền, cột mỡ lăm anh leo. Bằng những hình ảnh đậm sắc thái tạo hình, người đọc dễ dàng tưởng tượng không khí vui vẻ của ngày hội, thế nhưng cũng chính bằng những cách miêu tả ấy, giọng điệu ấy đã tỏ rõ lên án thói mị dân, nhố nhăng của bọn thống trị, quan Tây và quan Ta. Bà quan thật nực cười trong cái thế “tênh nghếch” thăng bé thì nom thật tội nghiệp trong điệu bộ “lom khom”. Chỉ hai hinh ảnh đặt đối xứng đã lột trần thực tại xót xa của cảnh đất nước trong cảnh nô lệ, dưới gót giày của lũ xâm lược. Đau xót hơn, những con người nô lệ ấy không nhận thức được nỗi nhục mất nước lại còn cuốn vào những trò chơi mà bọn thực dân Pháp bày ra để mị dân. Nhận thức rỏ điều đó, từ chổ gián tiếp đã kích, Nguyễn Khuyến đã chỉ thẳng Khen ai khéo vẻ trò vui thế Vui thế bao nhiêu, nhục bấy nhiêu! Nhà thơ như đang đứng từ xa, từ chối việc nhập cuộc ngày hội nhộn nhịp để miêu tả không khí náo nhiệt của ngày hội, nhận ra nỗi nhục của nô lệ để rồi cảnh tỉnh cho người dân Việt Nam đang bị thói mị dân làm cho mờ mắt. Có lẽ hiếm có bài thơ nào mà thái độ châm biếm của Nguyễn Khuyến được thể hiện trực tiếp đến như vậy. Xã hội đổi thay, những kỳ thi Hán học như “những phiên chợ chiều đã tàn”. Để chế giễu cảnh thi nửa mùa – nửa Tây nửa Ta – lúc bấy giờ chẳng ra gì, Nguyễn Khuyến đã mượn hình ảnh “tiến sĩ giấy” – một nhóm đồ chơi yêu thích của trẻ em ngày trước, qua đó nhằm miêu tả những “tiến sĩ thật” Cũng cờ, cũng biển, cũng cân đai Cũng gọi ông nghè có kém ai Điệp từ “cũng” kết hợp nghệ thuật liệt kê cho thấy những tiến sĩ thời bấy giờ cũng có đầy đủ từng thứ một những thứ áo xiêm diêm dúa. Họ cũng được gọi là những “ông nghè” chẳng kém ai, thế nhưng học vị danh giá, vẻ vang ấy thực chất cũng chỉ là một mảnh giấy có đóng dấu son đỏ lòe loẹt của triều đình Mãnh giấy làm nên thân giáp bảng Nét son điểm rõ mặt văn khôi Hơn thế nữa, kẻ học vị tiến sĩ, ông nghè cao quý giờ chẳng còn chút giá trị, nó mới “nhẹ” mới đơn giản làm sao khi có thể mua được bằng tiền. Cuộc mua bán này vô cùng có lợi “cái giá khoa danh ấy mới hời” bởi sự nghiệp quan trường còn có biết bao những cuộc mua bán đổi chác khác. Tất cả bọn chúng chỉ là một lũ ngu dốt, bất tài, vô dụng leo lên được vị danh giá thực chất chỉ nhờ có đồng tiền. Tiếng cười trào phúng cất lên hóm nhẹ mà càng ngẫm càng thấy sâu cay. Bằng nghệ thuật đột giáng, Nguyễn Khuyến đã đem lại sự rẽ ngoặt bất ngờ trong ý thơ Nghĩ rằng đồ thật hóa đồ chơi Miêu tả món đồ chơi để đã kích đồ thật nhưng đồ thật chỉ hóa ra như đồ chơi đó là tài châm biếm ý vị của nhà thơ Yên Đỗ. Nó đem đến cho bài thơ sự đa nghĩa đầy bất ngờ đồ chơi, đồ thật, tiếng hư hư thực thực lẫn lộn khó mà phân biệt. Cười người, cười đời chưa đủ, Nguyễn Khuyến còn đem mình ra để mà cười, cười mình có tài mà luẩn quẩn mà bế tắc. Ta nhận ra trong bài thơ “Tiến sĩ giấy” chút ngậm ngùi, chua xót bởi yếu tố tự trào mà nhà thơ muốn thể hiện. Là tam nguyên, từng vinh quy bái tổ rất vẻ vang, vinh hiển nhưng vì thời thế không thể giúp được gì cho dân, cho nước, ngẫm ra mình cũng chỉ là “Tiến sĩ giấy” với danh vờ danh hảo mà thôi. Nguyễn khuyến bộc lộ một tiếng cười chua xót đến tội nghiệp. Thậm chí đã có lúc ông còn chế giễu cái bất lực, bạc nhược của chính mình một cách thẳng thắn Nghĩ mình cũng gớm cho mình nhỉ Thế cũng bia xanh cũng bảng vàng Đối với cụ Tam Nguyên lúc này bìa xanh, bảng vàng có ý nghĩa gì đâu khi bản thân không thể góp sức phò vua, giúp nước, giúp dân. Điệp từ “mình” trở đi trở lại thể hiện niềm day dứt khôn nguôi, xoáy sâu vào bản thân mình mà chế giễu, mà trào phúng bởi thấy cuộc đời mình mới đáng cười làm sao. Cười chính mình có lẽ cái cười sâu sắc nhất mà cũng xót xa nhất. Như vậy, những sáng tác trào phúng của Nguyễn Khuyến hầu như đã điểm mặt đủ mọi đối tượng, mọi hiện tượng đáng phê phán trong xã hôi nửa thực dân, nửa phong kiến đương thời. Tiếng cười Nguyến Khuyến thực sự mang ý nghĩa xã hội sâu sắc. Bởi lẽ, Nguyễn Khuyến làm thơ trào phúng không phải xuất phát từ nổi đau nhân thế mà xuất phát từ tấm lòng trong sạch, cao khiết của một bậc đại nho có lòng yêu nước kín đáo, thâm trầm tìm cách phản ứng lại những cái xấu xa đen bạc của thời thế. Chính nỗi đau về thời thế đã khiến tiếng cười của Nguyễn Khuyến mang đậm tình yêu nước, tâm huyết với cuộc đời. Bởi trào phúng thực chất là trữ tình mà ở đó tình yêu thương được thay bằng sự căm thù. Cụ thể ở đây, tình yêu nước, thương dân được thể hiện bằng sự ẩn giấu dưới sự phê phán cái rởm đời, lố lăng của buổi giao thời đã hủy hoại bao giá trị tinh thần tốt đẹp, quý giá cộng với sự tố cáo tội ác của bọn xâm lược vô nhân đạo. Có lẽ vì thế mà Xuân Diệu đã cho rằng “Nguyễn Khuyến dù không cầm gươm chiến đấu dưới là cờ phấn nghĩa Cần Vương vẫn đáng được xếp vào hàng những nhà thơ yêu nước”. Phải thấy rằng, tiếng cười trong thơ Nguyễn Khuyến hết sức đặc sắc nó nhẹ nhàng, thâm thúy không vang lên thành tiếng nhưng hết sức sâu cay. Với nững điều ông viết ra, người đọc càng nghĩ càng thấm thía cái dụng ý sâu sắc trong lời thơ. Trong khi đó, nhà thơ trào phúng – Tú Xương thì lại gây tiếng cười dữ dội, quyết liệt, sắc sảo đến bốp chát. Cũng nói đến cảnh nghèo, cái đạm bạc của gia cảnh, nếu Nguyễn Khuyến nhẹ nhàng đùa vui trong “Bạn đến chơi nhà” thì Tú Xương lại nói thẳng, nói thật đến mức chua xót về cảnh nghèo của mình Van nợ lắm khi trào nước mắt Chạy ăn từng bữa toát mồ hôi. Để giễu cợt bọn quan tham, Nguyễn Khuyến gửi gắm tâm sự đã kích trong “Hỏi thăm quan tuần mất cướp”, trong khi đó Tú Xương lại châm biếm hết sức chua cay qua việc nhắc lại lời chúc đầu năm mới của bọn quan lại với nhau Lẳng lặng mà nghe nó chúc nhau Chúc nhau trăm tuổi bạc đầu râu … Lẳng lặng mà nghe nó chúc sang Đứa thời mua tước đứa mua quan … Nó lại mừng nhau cái sự giàu … Nó lại mừng nhau cái sự lắm con… Năm mới chúc nhau Sau mỗi lần nhại lại một lời chúc là thêm một lần Tú Xương có cơ hội vạch trần bộ mặt xấu xa của bọn quan lại. Chúng là một lũ tham sống, sợ chết, bản chất trơ tráo lì lợm, vô liêm sỉ thay nhau thực hiện hành vi mua quan bán tước bỉ ổi, tỏ rỏ lòng tham vô độ mà lại keo kiệt bủn xỉn vô cùng. Để rồi đến đoạn thơ kết, Tú Xương bày tỏ thái độ muốn tống khứ chúng đi bởi dưới mắt ông chúng chỉ là một lũ khỉ ngày ngày diễn trò làm rối loạn xã hội. Phố phường chật hẹp người đông đúc Bồng bế nhau lên ở núi non. Những câu thơ chẳng khác nào những ngọn roi mạnh quất thẳng vào bọn người đáng ghét ấy. Quả thật trào phúng của Tú Xương thật sắc sảo, thật bốp chát chứ không thâm trầm, kín đáo như cụ Yên Đổ. Cũng nói đến sự thay đổi theo chiều hướng đáng buồn của luân thường đạo lý, Nguyến Khuyến thể hiện một cách kín đáo qua việc miêu tả không khí vui nhộn của ngày “Hôi tây” thì Tú Xương lại đặt ngay môỵ câu hỏi lớn đối với xã hội Có đất nào như đất ấy không Phố phường tiếp giáp với bờ sông Nhà kia lỗi phép con khinh bố Mụ nọ chanh chua vợ chửi chồng. Đất Vị Hoàng Rồi ngay khi cùng phê phán những kỳ thi Hán học đương suy tàn, Tú Xương vẫn chửi thẳng không ngần ngại Cử nhân cậu ấm kỉ Tú tài con đô mĩ Thi thể mới là thi Ơi khỉ ơi là khỉ. Qua đó có thể thấy Nguyễn Khuyến và Tú Xương là hai nhà thơ trào phúng có phong cách rất riêng, rất nổi bật. Nhà thơ Chế Lan Viên đã khái quát được cá tính sáng tạo của hai nhà thơ này qua hai câu thơ Yên Đổ khóc dẫu cười không thể giấu Tú Xương cười như mãnh vỡ thủy tinh. Vì sao Nguyến Khuyến cười ra nước mắt như vậy trong khi Tú Xương lại cười dữ dội, sắc nhọn đến thế ? Phải thấy rằng Tú Xương và Nguyến Khuyến tuy sống cùng thời đại nhưng nếu Tú Xương sống ở chốn thành thị – nơi diễn ra rất sớm và rất tập trung lối sống lai căng, lỡm đời của buổi giao thời thì Nguyễn Khuyến quanh năm sống ở nông thôn, sau lũy tre làng với cuộc sống ở ẩn êm đềm, thanh bình. Hiện thực xã hội mà Nguyến Khuyến chứng kiến có nhiều phần ít trực tiếp hơn so với Tú Xương bởi thế sự phản ứng của Tú Xương mạnh mẽ hơn, quyết liệt hơn. Lại cùng là người có tài nhưng nếu Yến Đỗ là bậc đại nho với ba lần đỗ đầu vị thế “Tam nguyên” vẻ vang nhất trong lịch sử khoa bảng Việt Nam thì Tú Xương lại lận đận trong thi cử với “Tám khoa chưa khỏi phạm trường quy”, cuối cùng thi đỗ “Tú tài rốt bang”. Vì lẽ đó mà tiếng cười Nguyễn Khuyến là tiếng cười của bậc bề trên, luôn ý thức cái hơn hẳn người đời về tài, đức; nó mang giọng nhẹ nhàng, hóm hỉnh mà lại rất thâm thúy, chua cay, cười mà cũng là để khóc nên không thể có giọng điệu nào khác có thể thấy sự thâm trầm, kín đáo ấy. Sự khác biệt trong phong cách trào phúng của hai nhà thơ này còn do một lẽ tất yếu trong sáng tạo nghệ thuật. Nghệ thuật là một lĩnh vực của sáng tạo, của độc đáo. Nó không bao giờ chấp nhận bất cứ sự lặp lại nào, ngay cả sự lặp lại những chân lý vĩnh hằng. Chân lý chỉ có một nhưng người nghệ sĩ có vô vàn cách khác nhau, bằng tài năng và tâm huyết của mình, để thể hiện nó. “Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho” là vì vậy. Bởi thế, dù cùng vào giai đoạn cuối thế kỷ XIX, cùng chứng kiến buổi giao thời lố lăng, đồi bại, lại cùng lựa chọn mảng thơ trào phúng để thể hiện thái độ của mình trước cuộc đời với Tú Xương, song Nguyễn Khuyến đã khẳng định cá tính của mình trong sáng tác. Là bậc đại nho sống cuộc sống ở ẩn, sống nhàn, tiếng cười của Nguyễn Khuyến thật ý nghĩa, thật kín đáo, thật thâm nho. Cũng nhờ sắc màu trào phúng riêng biệt ấy mà những tác phẩm cũng như tên tuổi của Nguyễn Khuyến vẫn còn ghi dấu ấn trong lòng bạn đọc bao thế hệ trong suốt hơn một thế kỷ qua và cho đến mai sau. Tóm lại, mảng thơ trào phúng đã góp phần bồi đắp nên tên tuổi, vị thế của Nguyến Khuyến trên thi đàn dân tộc. Cùng với Tú Xương nhà thơ xứ Yên Đỗ đã đạt được những thành tựu đầu tiên nhưng có giá trị vững bền trong lĩnh vực trào phúng của văn học Việt Nam. Chắc chắn rằng dù thời gian có trôi đi, lớp bụi của nó vẫn không thể làm lu mờ dấu ấn mà Nguyễn Khuyến đã khắc tạc vào tâm trí bạn đọc – dấu ấn về một nhà thơ trào phúng “khóc dẫu cười không thể dấu”. Nguyễn Thanh Liêm Xưa nay, về ba bài thơ viết về mùa thu của Nguyễn Khuyến đều được các nhà thơ, nhà văn, các nhà nghiên cứu văn học, nghiên cứu văn hóa nhận định rằng Đó là những bức tranh thơ bất hủ, đặc tả cảnh mùa thu làng quê Đồng bằng Bắc Bộ, nhưng vẫn còn nhiều ý nghĩa, ý tứ, cái hay, cái đẹp tiềm ẩn, khiến người đời sau không ngừng dứt mực bình luận, phân tích, nghiên cứu và ca ngợi. Trong bài viết này, chúng tôi xin có thêm một vài suy nghĩ, góp phần thêm sáng tỏ. Đọc ba bài thơ thu của Nguyễn Khuyến, người đọc thường thấy ngay được ở đó có ba tầng không gian được miêu tả Tầng trên cao là bầu trời thu bài “Thu vịnh", tức “Vịnh mùa thu"; Tầng trên mặt đất, mặt ao bài “Thu ẩm", tức “Uống rượu mùa thu"; và Tầng ở dưới nước/ dưới đáy ao bài “Thu điếu", tức “Câu cá mùa thu". Bài “Thu vịnh" Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao, Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu. Nước biếc trông như tầng khói phủ, Song thưa để mặc bóng trăng vào. Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái, Một tiếng trên không ngỗng nước nào. Nhân hứng cũng vừa toan cất bút, Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào. Ở tư thế ngồi hoặc tựa gối, qua song cửa, nhà thơ ngước nhìn bầu trời thu cao vời vợi, xanh ngắt mấy tầng mà cảm hứng thơ. Và, rồi từ trên cao xanh ấy, cứ thấp dần, cảnh vật mùa thu hiện lên mỗi lúc một gần Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao - Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu - Nước biếc trông như tầng khói phủ - Song thưa để mặc bóng trăng vào - và, qua song cửa thấy mấy chùm hoa trước giậu. Duy chỉ có một âm thanh trong không trung mung lung vang vọng “Một tiếng trên không ngỗng nước nào" Nhiều người cho rằng, đó là tiếng đồng vọng không xác định trong không gian; nhiều người lại cho rằng đó là âm hưởng trong tâm tưởng tác giả xin phân tích ở cuối bài viết. Ở bài thơ này, để biểu thị không gian mùa thu cao lồng lộng, với nền cảnh bầu trời xanh ngắt, tác giả đã tinh xảo sử dụng lợi thế của âm vần tiếng Việt. Âm hưởng chủ đạo của bài thơ là vần Ao - một âm vực mở mấy tầng Cao, bóng trăng Vào, ngỗng nước Nào, với ông Đào. Bài “Thu ẩm" Năm gian nhà cỏ thấp le te, Ngõ trúc đêm sâu đóm lập loè. Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt, Làn ao lóng lánh bóng trăng loe. Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt, Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe. Rượu tiếng là hay, hay chẳng mấy, Độ năm ba chén đã say nhè. Giờ thì không gian mùa thu cứ như dần xuống thấp từ năm gian nhà cỏ xuống ngõ trúc đêm sâu, để rồi xuống tiếp nữa, trên mặt nước/ mặt ao, với bóng trăng loe lấp lánh. Trong cái say của thi nhân, theo hướng nhìn ngang lại như thấp dần, Nguyễn Khuyến thấy cái ảo từ trong cái thực, nên nhà tranh hóa ra nhà cỏ, vì trên mặt đất còn gì thấp hơn cỏ, và sau đó thấp hơn nữa là mặt nước/ mặt ao! Theo lăng kính cái nhìn ấy thì ngõ trúc cũng thẳm sâu trong màn đêm sâu. Tác giả đã chọn âm hưởng chủ đạo của bài thơ là âm vần Oe, tiếng Việt thường dùng âm vần này để biểu chỉ một thiết diện bề mặt đóm lập Lòe, bóng trăng Loe, mắt đỏ Hoe. Như vậy, không gian mùa thu ở bài thơ này như cố được thu lại, dồn nén xuống mặt đất, mặt nước, để cuối cùng in hình xuống đáy nước ao trong bài “Thu điếu". Bài “Thu điếu"Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,Một chiếc thuyền câu bé tẻo biếc theo làn hơi gợn tí,Lá vàng trước gió sẽ đưa mây lơ lửng trời xanh ngắt,Ngõ trúc quanh co khách vắng gối buông cần lâu chẳng được,Cá đâu đớp động dưới chân bài thơ này, tác giả nhìn xuống ao để cảm xúc miêu tả, nên mới thấy nước trong veo, sóng nước gợn tí, chiếc lá vàng theo gió sẽ đưa vèo xuống ao; và thấy không gian mùa thu với tầng mây lơ lửng trên bầu trời xanh ngắt, với ngõ trúc thực in hình đáy nước, khi gặp xao động sóng nước mà khúc xạ thành ngõ trúc quanh co. Nói khác đi, tác giả miêu tả không gian ảo của trời đất, cảnh vật mùa thu dưới ao thu. Ở đó độ cao không còn, là âm, hay gọi là độ sâu. Như vậy, Nguyễn Khuyến đã miêu tả không gian mùa thu từ dương vô cùng bầu trời cao xanh ngắt đến âm vô cùng bầu trời thăm thẳm in đáy nước ao thu, nên mọi cảnh vật cứ thấp dần, tưởng như chìm xuống đến độ sâu bất tận. Trong bài này Nguyễn Khuyến đã khéo vận dụng ý nghĩa của âm vần tiếng Việt, với vần Eo là âm hưởng chủ đạo nước trong Veo, bé Tẻo teo, sẽ đưa Vèo, khách vắng Teo, dưới chân Bèo. Đó là những từ lấy trong thành ngữ “tí tẹo tèo teo", dùng biểu chỉ một vật thể nhỏ bé, hoặc những vật thể nhỏ bé đang trong xu hướng nhỏ bé dần, tưởng như sắp biến mất “Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo"Chiếc thuyền câu đã bé tẻo teo như vậy, thì người ngồi trên thuyền ấy còn phải bé đến mức thế nào!; vả lại, chẳng ai đi câu cá trong cảnh ao thu lạnh lẽo, nước trong veo! Vì vậy có lẽ, cuộc câu cá này là tác giả tưởng tượng ra; và nếu nó có thật thì cũng không nhằm mục đích là câu được cá. Rốt cuộc, “Thu điếu" chỉ cốt ý nói về chuyện câu cá. Chuyện này ám ảnh Nguyễn Khuyến buổi từ quan đến suốt xin nói về ông Đào ở bài “Thu vịnh". Ông Đào Tiềm sống thời nhà Tấn bên Trung Quốc, là một ông quan sống thanh bạch nhưng tính tình phóng khoáng, hay uống rượu, thưởng hoa và làm thơ văn, nên bọn người xấu ghen tị, xu nịnh lên vua rằng ông hay chểnh mảng việc công, vua nghe theo. Từ quan về ở ẩn, ngày ngày ông chăm chút mấy khóm cúc, hòng quên đi thời cuộc, nhưng không thể, nên có viết truyện “Đào Nguyên ký" tức bài “Ký Nguồn đào". Bài ký kể rằng Có một người câu cá trên sông. Sông chảy đưa thuyền câu của ông ta trôi đi. Theo dòng trôi, sông mỗi lúc hẹp dần lại rồi thành suối, cho đến khi thuyền không trôi được nữa, mắc lại ở khe núi. Người câu cá rời thuyền và đi vào hang núi, càng vào sâu, hang càng hẹp lại. Ông lách người qua, thì bỗng thấy trước mặt chói loà, một thế giới mở ra cây trái sum xuê, muông thú vui vầy; người đi cày, người đi cấy, người dệt vải se tơ; trai gái vẻ mặt hớn hở. Có ông lão râu tóc bạc phơ ra đón, tự nói là ông cha họ lánh nạn nhà Tần chạy vào đây, từ đấy xây dựng nên một đất nước cực thịnh, mọi người sung sướng, hòa đồng, hoan lạc. Ông lão hỏi chuyện bên ngoài, người câu cá kể cho biết Bây giờ đã là nhà Tấn, đương sự rối ren, xã hội loạn lạc, nhân tình li tao, nhà nhà li tán… Từ đời Tần đến Tấn đã 4 đến 5 trăm năm rồi… Người câu cá hỏi có muốn về thăm Tấn không, mọi người đều lắc đầu, bởi không muốn dời một xã hội tốt đẹp đến một xã hội xấu xa như vậy. Nghe vậy người câu cá giật mình bừng tỉnh. Thì ra ông ta vẫn ngồi trên thuyền câu, giữa dòng sông nước chảy, vừa qua một giấc mộng. Đọc truyện trên, Nguyễn Khuyến đã bộc lộ cảm nghĩ trong bài thơ “Độc Đào Nguyên ký hữu cảnh", tức “Cảm xúc khi đọc Đào Nguyên ký". Bài thơ như sau Nguồn Đào suối hết lại non khơi, Cửa tới cung tiên đã mở rồi, Chốn ấy, bận nhìn không tính toán, Năm trăm xuân hạ bặt tăm hơi. Trầm ngâm say lả bên đèn tỏ, Bảng lảng quay về bóng hạc côi. Đáng giận, Đường - Ngu người chẳng thấy, Lại qua chỉ thấy Tấn - Tần thôi. Nguyễn Văn Huyền dịch Đường - Ngu thuộc đời vua Nghiêu, vua Thuấn, tương truyền cũng thịnh trị, thái bình, hòa mục như ở chốn Đào Nguyên, là một quốc gia, xã hội không có thật. Qua đó, Nguyễn Khuyến đã bộc lộ thái độ bất bình khi nhắc tới các đời nhà Tần, nhà Tấn “Khả hận Đường - Ngu nhân bất kiến Vãng lai chỉ thị Tấn - Tần gian" Đáng giận, Đường - Ngu người chẳng thấy Lại qua chỉ thấy Tấn - Tần thôi Như vậy, người câu cá trong “Đào Nguyên ký" thật giống người câu cá trong “Thu điếu". Nguyễn Khuyến đã mượn việc câu cá mùa thu để ngồi hoài cảm câu chuyện đẹp nhưng ảo của quá khứ. Chỉ khi có tiếng cá đớp bóng “Cá đâu đớp động dưới chân bèo", ông mới sực tỉnh, về với thực tại, với nỗi sầu đau thời thế buổi Nho tàn, nước nhà bị ngoại bang phương Tây xâm lược. Ông như bóng hạc gầy cô đơn của người câu cá kia, bảng lảng quay về hiện thực của một xã hội loạn lạc, tang thương. Ở bài “Thu vịnh", xưa nay chưa có ai giải thích thoả đáng những câu “Một tiếng trên không ngỗng nước nào", “Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào". Theo chúng tôi, có thể dựa vào điển tích nhân vật ông Đào Tiềm và điển tích văn học “Đào Nguyên ký" để giải thích Ông Đào Tiềm về ở ẩn, vẻ ngoài muốn quên đi thế sự, nhưng trong lòng vẫn cảm hoài một xã hội tốt đẹp nhưng ảo tưởng trong quá khứ, vẫn uống rượu thưởng hoa và làm thơ, chả lẽ mình Nguyễn Khuyến tự vấn trước không gian mùa thu tuyệt đẹp lại bỏ qua những nhắc nhớ về cái đẹp, muốn quên đi, cất bút không làm thơ, nhưng nghĩ tới ông Đào mà thẹn! Theo mạch liên kết các hình tượng Ông Đào, truyện “Đào Nguyên ký", câu thơ “Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái", có thể suy ra nghĩa của câu “Một tiếng trên không ngỗng nước nào" - là âm thanh từ quá khứ vọng về trong tâm tưởng Nguyễn Khuyến, giữa không gian mùa thu ngập tràn, ông cứ ngỡ như là ở trên không trung vang vọng.​ Thu Vịnh [Nguyễn Khuyến] ❤️️ Nội Dung Bài Thơ, Phân Tích ✅ Mời Bạn Đọc Tham Khảo Các Sơ Đồ Tư Duy, Những Mẫu Phân Tích Hay Nhất. Nội Dung Bài Thơ Thu VịnhVề Thi Sĩ Nguyễn KhuyếnVề Tác Phẩm Thu VịnhHoàn Cảnh Sáng Tác Bài Thơ Thu VịnhÝ Nghĩa Nhan Đề Bài Thơ Thu VịnhGiá Trị Nội Dung Và Nghệ Thuật Của Thu VịnhGiá Trị Nội DungGiá Trị Nghệ ThuậtBố Cục Bài Thơ Thu VịnhDàn Ý Bài Thơ Thu VịnhSơ Đồ Tư Duy Thu Vịnh5 Mẫu Phân Tích Bài Thơ Thu Vịnh Hay Nhất Phân Tích Bài Thơ Thu Vịnh Ấn Tượng – Mẫu 1Phân Tích Bài Thơ Thu Vịnh Nổi Bật – Mẫu 2Phân Tích Bài Thơ Thu Vịnh Tiêu Biểu – Mẫu 3Phân Tích Bài Thơ Thu Vịnh Đặc Sắc – Mẫu 4Phân Tích Bài Thơ Thu Vịnh Hay Nhất – Mẫu 5 Bài thơ “Thu vịnh” là một trong ba bài thơ Nôm nổi tiếng Thu điếu, Thu ẩm và Thu vịnh. Chính chùm thơ về mùa thu này đã giúp Nguyễn Khuyến bước lện vị trí hàng đầu trong các nhà thơ viết về mùa thu. Cùng đọc Nội Dung Bài Thơ Thu Vịnh ngay sau đây. Thu vịnhTác giả Nguyễn Khuyến Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao,Cần trúc lơ phơ gió hắt biếc trông như tầng khói phủ,Song thưa để mặc bóng trăng chùm trước giậu hoa năm ngoái,Một tiếng trên không ngỗng nước nào?Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào. Chia sẻ cho bạn đọc 💚 Thu Ẩm [Nguyễn Khuyến] 💚 Sơ đồ tư duy, phân tích hay nhất Về Thi Sĩ Nguyễn Khuyến Cùng tìm hiểu những thông tin chính Về Thi Sĩ Nguyễn Khuyến. Nguyễn Khuyến 1835 – 1909, hiệu Quế Sơn, quê Yên Đổ, Bình Lục, Hà Nam. Gia đình Nhiều người đỗ đạt, làm quan to dưới triều Lê – Mạc. Đến đời cụ thân sinh thì nghèo túng. Đỗ đầu cá ba kì Hương, Hội, Đình nên được gọi là Tam nguyên Yên Đồ. Từng làm các chức quan dưới triều Nguyễn. Năm 1884, Nguyễn Khuyến xin về hưu, ở làng quê. Về số lượng Nguyễn Khuyến để lại hơn tám trăm tác phẩm. Vẻ thể loại thơ, câu đối, hát nói viết bằng chữ Hán và chữ Nôm. Những tác phẩm nổi bật Cuốc kêu cảm hứng, Bạn đến chơi nhà, Câu cá mùa thu, Thu ẩm, Thu Vịnh… XEM THÊM 👉 BÀI THƠ BẠN ĐẾN CHƠI NHÀ CỦA NGUYỄN KHUYẾN Về Tác Phẩm Thu Vịnh Về Tác Phẩm Thu Vịnh, đây là một bài thơ hay thuộc thể thất ngôn bát cú đường luật, góp phần khẳng định tình yêu quê hương đất nước đằm thắm trong thơ Nguyễn Khuyến, thể hiện qua tình yêu thiên nhiên tha thiết. Những câu thơ nhẹ nhàng dễ đi vào lòng người, sẽ không ai có thể quên, khi nhắc tới thơ về mùa thu Việt Nam, Thu Vịnh như là một trong 3 bài thơ đặc sản của thơ văn viết về mùa thu. Với bài thơ Thu vịnh, tác giả Nguyễn Khuyến đã thành công trong việc vẽ lên một bức tranh mùa thu quê hương tuyệt đẹp. Đây không chỉ đơn thuần là bức tranh thiên nhiên mà đó còn là nỗi lòng của nhà thơ được gửi gắm một cách chân thành trong đó. Giới thiệu đến bạn đọc🌱 Câu Cá Mùa Thu 🌱 Nội Dung, Nghệ Thuật Hoàn Cảnh Sáng Tác Bài Thơ Thu Vịnh Cùng tìm hiểu thêm về Hoàn Cảnh Sáng Tác Bài Thơ Thu Vịnh nhé. Thu Vịnh nằm trong chùm ba bài thơ thu của Nguyễn Khuyến gồm Thu điếu, Thu ẩm, Thu vịnh. Bài thơ được viết trong thờ gian khi Nguyễn Khuyến về ở ẩn tại quê nhà. Cảnh thu được Nguyễn Khuyến trong bài “Thu vịnh” là cảnh thu của làng quê Việt Nam thời thực dân phong kiến, dưới cái nhìn của một bậc đại trí đã lui về ẩn dật nơi thôn dã. Không gian hẹp, mở ra bằng chiều cao với sắc trời đặc trưng của mùa thu xứ Bắc. Chia sẽ bạn bài thơ hay của Nguyễn Khuyến⚡Khóc Dương Khuê Ý Nghĩa Nhan Đề Bài Thơ Thu Vịnh Mời bạn đọc cùng khám phá Ý Nghĩa Nhan Đề Bài Thơ Thu Vịnh. Nhan đề “Thu vịnh” thông thường vẫn hiểu là vịnh mùa thu, nhưng về chữ Hán còn cho phép hiểu mùa thu, làm thơ vịnh. Cách hiểu này sẽ ăn khớp với cách hiểu hai tiêu đề sau Thu điếu mùa thu, câu cá. Thu ẩm Mùa thu, uống rượu”. Qua việc vịnh mùa thu với những nét đẹp tiêu biểu, Nguyễn Khuyến cho thấy một tâm sự u hoài, một tấm lòng xót xa trước cảnh, kín đáo, bày tỏ một tình cảm yêu nước chân thành. Màu sắc nước biếc hòa hợp trong tranh của Nguyễn Khuyến. Tặng bạn trọn bộ tuyển tập 👉 Thơ Nguyễn Khuyến [HAY NHẤT] Giá Trị Nội Dung Và Nghệ Thuật Của Thu Vịnh Sau đây là các Giá Trị Nội Dung Và Nghệ Thuật Của Thu Vịnh. Giá Trị Nội Dung Thu vịnh là một bài thơ hay viết về mùa thu cua Nguyễn Khuyến. Bức tranh mùa thu với màu sắc thanh đạm, đường nét uyển chuyển, không gian cao rộng, cảnh vật huyền ảo dưới ánh nắng trắng trong thể hiện nỗi lòng tha thiết của nhà thơ đối với quê hương đất nước. Thiên nhiên mùa thu của quê hương làng cảnh Việt Nam, dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Khuyến đẹp một cách thanh cao, gợi cảm, hồn hậu, khiến chúng ta càng thêm yêu, thêm quí quê hương đất nước của mình. Nhân vẻ đẹp của đêm thu. Nhà thơ cũng bộc bạch tâm sự sâu kín, chân thật của mình hết sức cảm động. Giá Trị Nghệ Thuật Những từ ngữ được sử dụng trong bài thơ vô cùng trong sáng, giản dị, tự nhiên, gần gũi với đời thường đã thể hiện chính xác và lột tả được cái thần của cảnh vật Trời thu xanh ngắt, cần trúc lơ phơ, gió hắt hiu, nước biếc cũng như cho ta thấy được tâm trạng của chủ thể trữ tình. Sử dụng từ láy một cách khéo léo, gợi lên trong các câu thơ chút gì đó man mác buồn không tỏ. Các tính từ Xanh ngắt, gió hắt hiu, nước biếc; các biện pháp tu từ So sánh, đối lập.. được sử dụng một cách điêu luyện mang lại hiệu quả nghệ thuật cao. Đừng vội bỏ lỡ phân tích tác phẩm🌱 Tự Tình [Hồ Xuân Hương]🌱 Giá Trị Nội Dung Và Nghệ Thuật Bố Cục Bài Thơ Thu Vịnh Bố Cục Bài Thơ Thu Vịnh gồm có 2 phần chính Cảnh thu 6 câu đầu tả cảnh thu với ao thu, cần trúc, nước biếc, song thưa, trăng thu, hoa thu.. ; Cảm xúc của thi nhân 2 câu cuối biểu đạt nỗi thẹn và tâm trạng u uẩn, day dứt của thi nhân Dàn Ý Bài Thơ Thu Vịnh Sau đây là Dàn Ý Bài Thơ Thu Vịnh được chia sẻ chi tiết để các bạn tham khảo. 1. Mở bài – Nguyễn Khuyến có nhiều bài thơ viết về mùa thu. Chùm thơ thu nổi tiếng đã góp phần tôn vinh tên tuổi tác giả lên vị trí hàng đầu trong các nhà thơ viết về quê hương làng cảnh Việt Nam. – Trong chùm thơ đó thì bài Thu vịnh tiêu biểu nhất, in đậm phong cách nghệ thuật của Nguyễn Khuyến. 2. Thân bài + Hai câu đề Trời thu xanh ngắt mấy từng cao,Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu. – Mở đầu là hình ảnh bầu trời mùa thu xanh ngắt và cao vời vợi. Xanh ngắt là xanh thăm thẳm một màu; mấy từng cao là tưởng như bầu trời có nhiều lớp, nhiều tầng. – Nghệ thuật lấy điểm tả diện, lấy động tả tĩnh trong câu thứ hai thường thấy trong thơ cổ điển, được Nguyễn Khuyến vận dụng rất tự nhiên và phù hợp. Cần trúc thanh mảnh khẽ đong đưa trước ngọn gió hắt hiu gió nhẹ càng tôn thêm vẻ mênh mông của bầu trời mùa thu. + Hai câu thực Nước biếc trông như tầng khói phủ,Song thưa để mặc bóng trăng vào. – Nước biếc là màu đặc trưng của nước mùa thu trong xanh. Lúc sáng sớm và chiều tối, mặt ao hồ thường có sương, trông như tầng khói phủ. Cảnh vật quen thuộc, bình dị trở nên huyền ảo. – Hình ảnh Song thưa để mặc bóng trăng vào có sự tương phản giữa cái hữu hạn song thưa và cái vô hạn bóng trăng, do vậy mà tứ thơ rộng mở, mênh mông ý nghĩa. – Cảnh vật trong bốn câu thơ trên được nhà thơ miêu tả ở những thời điểm khác nhau trong ngày, nhưng mối dây liên hệ giữa chúng lại là sự nhất quán trong cảm xúc của tác giả. + Hai câu luận Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái,Một tiếng trên không ngỗng nước nào. – Tâm trạng hoài cổ chi phối cách nhìn, cách nghĩ của nhà thơ. Hoa năm nay mà nghĩ là hoa năm ngoái. Tiếng ngỗng trời kêu quen thuộc mỗi độ thu về khiến nhà thơ giật mình, băn khoăn tự hỏi ngỗng nước nào? – Âm điệu câu thơ 4/1/2 như chứa chất bâng khuâng, suy tư. Nhà thơ quan sát cảnh vật với một nỗi niềm u uất. + Hai câu kết Nhân hứng cũng vừa toan cắt bút,Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào. – Thi hứng dạt dào thôi thúc nhà thơ cầm bút, nhưng phần lí trí bừng thức khiến nhà thơ chợt thấy thẹn với ông Đào. Tức Đào Tiềm, nhà thơ nổi tiếng đời Đường bên Trung Quốc. – Nguyễn Khuyến thẹn về tài thơ thua kém hay thẹn vì không có được khí tiết cứng cỏi như ông Đào ? Nói vậy nhưng Nguyễn Khuyến vẫn sáng tác nên bài Thu vịnh để đời. – Câu thơ cuối bỏ lửng khơi gợi suy ngẫm của người đọc. 3. Kết bài – Thu vịnh là một bài thơ hay, góp phần khẳng định tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương, đất nước trong thơ Nguyễn Khuyến – Trình độ nghệ thuật của bài thơ đã đạt tới mức điêu luyện, khó ai sánh kịp. Mời bạn xem thêm🔻 Hồn Trương Ba, Da Hàng Thịt 🔻 Sơ Đồ Tư Duy, Các Mẫu Phân Tích Hay Sơ Đồ Tư Duy Thu Vịnh Tổng hợp thêm các Sơ Đồ Tư Duy Thu Vịnh bên dưới. Sơ đồ tư duy bài thơ Thu Vịnh Sơ Đồ Tư Duy Về Tác Giả Nguyễn Khuyến Đừng vội bỏ lỡ phân tích 🍀Ông Già Và Biển Cả🍀 Sơ Đồ Tư Duy, Các Mẫu Phân Tích Hay 5 Mẫu Phân Tích Bài Thơ Thu Vịnh Hay Nhất Nhất định đừng bỏ qua 5 Mẫu Phân Tích Bài Thơ Thu Vịnh Hay Nhất sau đây. Phân Tích Bài Thơ Thu Vịnh Ấn Tượng – Mẫu 1 Mùa thu từ xưa tới nay luôn là nguồn cảm hứng dồi dào trong các tác phẩm thi ca nhạc họa, bởi mùa thu mang một cái vẻ đẹp tinh tế, uyển chuyển, có lúc mơ màng, có lúc lại buồn man mác, khơi gợi nên nhiều cảm xúc vi diệu trong tâm tưởng con người. Và Nguyễn Khuyến cũng không ngoại lệ, với chùm thơ về mùa thu rất nổi tiếng ấy là Thu điếu, Thu vịnh và Thu ẩm, nói về ba thú vui nhân mùa thu tới. Trong đó Thu vịnh được xem là bài thơ mang nhiều nét thi vị đậm đà về cảnh sắc mùa thu nơi làng quê, thôn dã đầy giản dị và hồn hậu. Thu vịnh có nghĩa là ngâm vịnh, ca tụng về mùa thu, tuy có một số quan niệm cho rằng nên hiểu là tác giả đang trầm ngâm ngắm mùa thu mà làm thơ nhưng nếu như thế thì chưa chính xác lắm. Cả bài là những vần thơ bay bổng, mới nghe mới đọc thì tưởng chừng chỉ đơn giản là tả về mùa thu, nhưng nếu đọc mà trầm ngâm thêm chút nữa mới biết nó cũng chứa nhiều nỗi niềm tâm sự của một con người yêu nước, thương dân. Mở ra cảnh sắc mùa thu là hai câu thơ “Trời thu xanh ngắt mấy từng trúc lơ phơ gió hắt hiu.” Khung cảnh mùa thu hiện ra thật trong trẻo, khoáng đạt với hình ảnh bầu trời mang một màu mây xanh ngắt, cao vời vợi, tô điểm cho khung cảnh trống trải ấy, thi nhân vẽ vào một cần trúc “lơ phơ”, mềm mại, uyển chuyển trong cái gió se se lạnh “hắt hiu”. “Trời thu xanh ngắt” như chính thứ tình cảm sâu đậm của nhà thơ dành cho mùa thu nơi quê hương, một mùa thu của xứ Bắc, với nét riêng biệt ấy là “cần trúc lơ phơ” vẫn mang chút mềm mại, nhưng lại chẳng yếu đuối, lả lướt như liễu. Giọng thơ chậm rãi nhẹ nhàng, vương một chút buồn man mác nơi hai chữ “hắt hiu”, phải chăng thi nhân có điều chi phiền lòng? “Nước biếc trông như tảng khói phủ,Song thưa để mặc bóng trăng vào” Trên đã có “trời xanh” dưới lại có “nước biếc”, cả hai thứ ấy đều mang một màu xanh trong trẻo, dịu dàng, liệu còn có phong cảnh nào xinh đẹp hơn thế nữa? Đôi khi người đọc vì không nắm rõ nghệ thuật “đảo trang” trong thơ ca nghệ thuật đổi âm vận sao cho câu thơ được vần mà thường hiểu lầm hoặc hiểu không rõ nghĩa của câu thơ này. Ở đây, ý thơ có nghĩa là làn sương tựa như khói đang là đà phủ trên mặt nước biếc. Chữ “biếc” ở đây không hẳn là nước có màu ấy thật, mà cũng có khi nhà thơ tưởng tượng ra rồi viết vào cho bay bổng lại tiệp vần với nhau. Tương tự, ở câu dưới chữ “thưa” cũng được đưa vào nhằm mục đích này. Ta chợt nhận ra cảnh mùa thu trong bài được tác giả tinh tế lướt qua hai khoảng thời gian sáng và tối, ban ngày thì thấy trời xanh, nước biếc, ban đêm thì lại ngó thấy cảnh ánh trăng vàng, dịu nhẹ len lỏi từng song cửa. Trăng với mùa thu là hai thực thể rất hay song hành cùng nhau trong những bài thơ, bài văn nói về mùa thu và hơn thế nữa trăng còn là người bạn tri kỷ của thi nhân, đêm khuya thanh vắng, thi nhân chẳng có ai bầu bạn, đành làm bạn với trăng sáng, âu ngắm trăng làm thơ cũng là một thú vui tao nhã. Và cũng nhờ có ánh trăng này mùa thu trong thơ của Nguyễn Khuyến có thêm chút gì đó mộng mơ, lãng mạn hơn cũng vừa thanh tao, nhã nhặn. “Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoáiMột tiếng trên không ngỗng nước nào?” Cụm từ “hoa năm ngoái” có lẽ chúng ta không nên hiểu là hoa đã nở từ năm ngoái mà đây hẳn là tâm trạng của tác giả đang hoài niệm quá khứ, một cái quá khứ nào đó còn kéo dài trong tâm hồn của thi nhân đến ngày hôm nay, mang đến trong điệu thơ những nỗi u hoài, trầm buồn của tác giả. Hẳn rằng ấy là một ký ức ngọt ngào tựa như những đóa hoa trước giậu, khiến tác giả bỗng ngậm ngùi khi nhớ về. Trong cái không gian vốn trầm tĩnh, lắng đọng ấy bỗng nhiên bị xáo động bởi tiếng ngỗng trời, làm bừng tỉnh tâm hồn người thi sĩ, bừng tỉnh cả không gian mùa thu vốn thanh bình yên ắng, đem lại chút âm điệu đơn bạc, giải đi nỗi vắng lặng, tịch liêu. Ở hai câu thơ cuối tâm trạng cảu nhà thơ được bộc lộ rõ hơn “Nhân hứng cũng vừa toan cất bútNghĩ ra lại thẹn với ông Đào” Giữa khung cảnh trời thu đẹp và lãng mạn đến thế, thử hỏi liệu có thi nhân nào không rung động, vừa nhìn là muốn động bút làm một mạch mấy bài thơ, bài vịnh cho thỏa hứng. Nhưng chợt Nguyễn Khuyến xuất hiện một suy nghĩ rất lạ “thẹn với ông Đào”, “Đào” ở đây là Đào Tiềm tên khác là Đào Uyên Minh, vốn là một nhà thơ nhà thơ rất nổi tiếng thời Lục Triều Trung Quốc, ông là người tài giỏi, từng đỗ tiến sĩ rồi ra làm quan, nhưng chán ghét chốn quan trường bẩn thỉu, nhũng nhiễu mà lui về ở ẩn. Vậy cớ gì mà Nguyễn Khuyến “thẹn”, khi mà tính ra ông cũng chẳng thua kém gì về học thức và tài năng. Câu trả lời ấy là Nguyễn Khuyến thấy hổ thẹn khi thua ở cái khí tiết của một bậc quân tử phải có, Đào Tiềm sẵn sàng từ quan khi chán ghét, cũng chẳng màng đến thế sự, cứ ung dung làm thơ, sống thanh tao ẩn dật. Còn Nguyễn Khuyến ông, lại vẫn không thể từ bỏ công danh mà ra làm quan dưới thời Pháp thuộc, khi từ quan rồi cũng chẳng thôi được cái mối ân hận khi làm quan buổi rối ren, đầy nhục nhã, ấy chính là căn nguyên của chữ “thẹn” nơi cuối bài. Nhưng cũng chính những câu thơ tỏ lòng như thế ta mới thấy được một nhân cách cao cả, một tấm lòng đầy chân thành của người quân tử, không trốn tránh sự thật mà sẵn sàng thừa nhận, nhận để biết mà không thôi tự vấn và tha thứ cho lỗi lầm xưa cũ, người như thế thật đáng trân trọng biết bao. Thu vịnh là bài thơ hay và đặc sắc, có mùi vị mùa thu miền quê Việt Nam thật rõ ràng và chân thực. Những câu thơ với nhịp điệu chậm rãi, mang chút suy tư, có chỗ hơi lạ lùng và khó hiểu đã mang đến cho người đọc những cảm nhận mới về một mùa thu trong tâm hồn người thi sĩ. Đặc biệt qua những câu thơ bộc bạch ấy ta còn thấu hiểu hơn về nỗi lòng của tác giả, nỗi hổ thẹn cũng là niềm yêu nước, thương dân ẩn sâu trong tâm hồn của nhà thơ. Phân Tích Bài Thơ Thu Vịnh Nổi Bật – Mẫu 2 Nguyễn Khuyến có nhiều bài thơ viết về mùa thu bằng chữ Hán và chữ Nôm. Thu vịnh là một trong ba bài thơ Nôm nổi tiếng Thu điếu, Thu ẩm và Thu vịnh. Chùm thơ này đã tôn vinh Nguyễn Khuyến lện vị trí hàng đầu trong các nhà thơ viết về mùa thu của quê hương, làng cảnh Việt Nam. Đáng lưu ý là các chi tiết trong bài thơ này đều rút ra từ cảnh vật thân quen của quê hương tác giả. Vùng đồng chiêm trũng Bình Lục một năm chỉ cấy được một mùa, còn toàn là ngập nước. Trong làng có vô số ao chuôm với những bờ tre quanh co bao bọc những mái tranh đầu bài thơ là hình ảnh bầu trời bao la, bát ngát Trời thu xanh ngắt mấy từng cao,Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu. Xanh ngắt là xanh thăm thẳm, mấy từng cao là rất cao, tưởng như có nhiều lớp, nhiều tầng. Trên cái nền là bầu trời bao la nổi bật lên hình ảnh thanh tú của cần trúc cây trúc non dáng cong cong như chiếc cần câu đang đong đưa khe khẽ trước gió thu. Giô hắt hiu là gió rất nhẹ và như chứa chất tâm trạng bên trong. Tất cả dường như có một mối cảm thông thầm lặng, sâu kín, tinh tế và khó nắm bắt… Sự lay động rất nhẹ của cần trúc càng làm tăng thêm cái lặng thinh, sâu thẳm của bầu trời. Bầu trời lại như dồn hết cái sâu lắng vào bên trong cần trúc, để cho nó vừa như đong đưa mà cũng vừa như đứng yên. Đó là nét động và nét tĩnh của cảnh thu. Hai câu đề chấm phá hai nét phong cảnh đơn sơ nhưng hoà điệu nhịp nhàng với tâm hồn thi sĩ. Trong đó, mọi chi tiết, sắc màu, đường nét, cử động đều rất hài hoà. Nhà thơ mới nói đến trời thu nhưng ta đã thấy cả hồn thu trong đó. Nước biếc trông như tầng khói phủ,Song thưa để mặc bóng trăng vào. Nước biếc là màu nước đặc trưng của mùa thu khi trời bắt đầu se lạnh. Sáng sớm và chiều tối, trên mặt ao, mặt hồ có một lớp sương mỏng trông như khói phủ. Cảnh mặt nước khói sương bình thường ấy qua con mắt và tâm hồn nhà thơ đã trở thành một dáng thu ngâm vịnh. Mỗi cảnh một vẻ đẹp khác nhau, nhưng mối dây liên kết giữa chúng lại chính là sự nhất quán trong tâm tư tác giả. Ngòi bút cũng theo diễn biến tâm tư mà chọn ra mấy nét điển hình kia. Tuy khác nhau nhựng dường như các hình ảnh trên đều cùng gợi lên trạng thái íặng yên, ẩn giấu sự cảm thông, giao hoà giữa tâm hồn tác giả và hồn thu. Tâm trạng chủ đạo ấy chi phối cách nhìn, cách nghĩ của Nguyễn Khuyến Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái,Một tiếng trên không, ngỗng nước nào? Sau khi nhìn mặt nước khói phủ, ngắm ánh trăng tràn qua song thưa, nhà thơ trông ra bờ giậu ngoài sân, ở đó, nở mấy chùm hoa. Điều lạ là bỗng dưng, nhà thơ cảm thấy đó là hoa năm ngoái. Ở trên, cảnh vật đã được miêu tả qua con mắt nhìn có vẻ khách quan, đến đây cảm xúc của trái tim đã khoác lên cảnh vật màu sắc chủ quan. Hoa nở trước mắt hẳn hoi mà cảm thấy là hoa năm ngoái. Điều gì đã xảy ra trong lòng người? Con người đang ở trong hiện tại mà như lùi về quá khử hay bóng dáng quá khứ hiện về trong thực tại? Âm điệu câu thơ theo nhịp 4/1/2 Từ Mấy chùm trước giậu đến hoa năm ngoái có một đoạn suy tư, ngẫm nghĩ và sau đó đột nhiên xuất hiện cảm giác lạ lùng là hoa năm ngoái chú không phải hoa năm nay. Cảm giác ấy khiến nhà thơ nghe tiếng ngỗng trên không văng vẳng mà giật mình băn khoăn tự hỏi ngỗng nước nào ? Mặc dù âm thanh ấy đã quá quen thuộc mỗi độ thu về. Nếu như tròng bốn câu thơ trên, cảnh vật hài hoà, giao cảm với nhau thì đến đây, con người hoà hợp với cảnh vật trong một nỗi niềm u uất. Cảnh vật thể hiện tâm tư con người và tâm tư con người thể hiện qua cách nhìn cảnh vật. Như vậy, cảnh vật được miêu tả qua đôi mắt và trái tim rung cảm của nhà thơ. Mùa thu tới, nhà thơ nhìn hoa trước sân, nghe tiếng chim kêu trên trời vẳng xuống mà trỗi dậy cả một niềm xót xa, lặng lẽ mà như nẫu ruột, chết lòng. Chiều sâu của tâm hồn thi sĩ lắng đọng vào chiều sâu của câu thơ là vậy. Trước cảnh thu và hồn thu khiến thi hứng dạt dào, nhà thơ toan cất bút, nhưng nghĩ đi nghĩ lại, bỗng nhiên thấy thẹn với ông Đào nên đành thôi Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào. Nhà thơ thẹn nỗi gì vậy? Thẹn vì tài thơ thua kém, hay là thẹn vì mình chưa có được nhân cách trong sáng và khí phách cứng cỏi như Đào Tiềm? Lôgic của bài thơ là từ cảnh đến tình, từ tình đến người. Lời thơ trong câu kết có cái gì đó lửng lơ mà kín đáo, do đó càng làm tăng thêm chất suy tư của cả bài thơ. Nguyễn Khuyến miêu, tả cảnh thu ở quê hương mình, từ mày trời, ngọn trúc, mặt nước, ánh trăng đến chùm hoa trước giậu, tiếng ngỗng trên không… để dẫn đến cặm xúc đầy suy tư ẩn chứa trong cảnh vật. Thông qua đó, òng gửỉ gắm tâm trạng xót xa, tiếc nuối trước tình trạng đất nước rơi vào tay giặc ngoại xâm, quá khứ tốt lành không còn nữa mà mình thì lực bất tòng tâm. Thu vịnh là một bài thơ hay, góp phần khẳng định tình yêu quê hương đất nước trong thơ Nguyễn Khuyến, thể hiện qua tình yêu thiên nhiên tha thiết. Trình độ nghệ thuật của bài thơ đã đạt đến mức điêu luyện, tinh tế, không dễ mấy ai sánh được. Phân Tích Bài Thơ Thu Vịnh Tiêu Biểu – Mẫu 3 Bằng những hành ảnh gần gũi thân thương của làng qua trong cảnh mùa thu từ mây, trời, ngọn trúc, mặt nước, ánh trăng, và những âm thâm quen thuộc của gió, tiếng ngỗng… Cũng chính vì vật mà bài thơ đã mang một nét riêng, một cảnh đẹp nhưng lại ẩn chứa những nỗi lòng khó có thể diễn tả hết được. Cũng chính qua bài thơ, góp phần nào khẳng định được tình yêu quê hương đất nước, tình yêu thiên nhiên tha thiết của nhà thơ, và cái tình yêu đó được thể hiện hết sức tinh tế và uyên thâm không mấy ai có thể diễn tả được. Như đã nói, Nguyễn Khuyến thường dành tình cảm đặc biệt cho quê hương làng cảnh Việt Nam. Ông có một chùm thơ nổi tiếng viết về mùa thu gồm có 3 bài Thu vịnh, Thu điếu, Thu ẩm đều đặc tả phong cảnh làng quê. Phân tích Thu vịnh cũng như chùm thơ này sẽ thấy, Nguyễn Khuyến đã sáng tác theo lối “chùm ba” của đại thi hào Trung Quốc – Đỗ Phủ. Đối với bài “Thu vịnh”, Xuân Diệu từng nhận xét rằng đây là bài thơ trong ba bài về mùa thu của Nguyễn Khuyến mang cái hồn, cái chất của mùa thu hơn cả. Qua “Thu vịnh”, mùa thu xử Bắc hiện lên rõ nét, tinh tế và cũng ẩn chưa những tâm sự sâu kín của người viết Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao,Cần trúc lơ phơ gió hắt biếc trông như tầng khói phủ,Song thưa để mặc bóng trăng chùm trước giậu hoa năm ngoái,Một tiếng trên không ngỗng nước nào?Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào. Mở đầu bài thơ, tác giả phác họa một bức tranh không gian thoáng đãng. Trên nền trời được chấm phá một nét mỏn, mềm của cành trúc Trời thu xanh ngắt mấy từng cao,Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu. “Trời thu xanh ngắt” là điểm đặc trưng đầu tiên của mùa thu xứ Bắc. Nhưng màu xanh ấy không chỉ là màu của trời thu mà còn ẩn chứa tình yêu tha thiết của người viết đối với mùa thu cũng như làng cảnh quê hương. Không gian ngày mùa thu còn mở ra thăm thẳm với “mấy tầng cao”. Giữa màn trời xanh ngắt, một cành trúc vươn lên thật thanh cao mà không đìu hiu như “rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang” như trong thơ của Xuân Diệu. Từ láy “lơ phơ” khi tả cành trúc cũng thật gợi hình, nó gợi tả sự thưa thớt của lá trúc, nên trước gió mùa thu không ngừng lay động. Còn cơn gió “hắt hiu” là gió như thế nào? Đúng hơn, cái sự “hắt hiu” đó là những rung động, là nỗi buồn mơ hồ mà tâm hồn người thi nhân cảm thấy khi đứng trước cảnh thu đượm buồn. Nhưng rồi bức tranh mùa thu trong “Thu vịnh” được Nguyễn Khuyến cho thêm sắc màu mới, đường nét và hình ảnh mới. Cái không khí mùa thu xứ Bắc vì thế thêm đa đa dạng hơn Nước biếc trông như tầng khói phủSong thưa để mặc bóng trăng vào Và mùa thu được pha thêm màu “nước biếc”, mùa thu được khoác lên chiếc áo mới với màu xanh tha thiết. Gợi hình, gợi cảm hơn nữa khi áo thu trong xanh hòa quyện cùng “khói phủ” nhạt nhòa. Như cảnh đêm thu còn huyền diệu hơn thế khi có thêm trăng. Người thi nhân mở cửa để đón trăng “Song thưa để mặc bóng trăng vào”. Cũng như nhiều nhà thơ khác, trăng là người bạn tri kỉ của Nguyễn Khuyến. Và có lẽ, nếu không có sự hiện diện của trăng, bức tranh mùa thu sẽ thiếu đi nhiều sự thi vị. Cảnh vật trong đêm được bao trùm bởi ánh trăng sẽ trở nên huyền ảo, mộng mơ hơn. Cảnh đêm thu ấy càng trở nên huyền hoặc hơn khi có sự góp mặt của tiếng chim, của “giậu hoa”; Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoáiMột tiếng trên không ngỗng nước nào? Hoa mùa thu vẫn thế, không có sắc màu, là bởi khói phủ nhạt nhòa hay người viết đã không còn ý niềm về dòng thời gian trôi. Nên chỉ biết là hoa năm ngoái, mà chẳng rõ “mấy chùm trước giậu” là hoa gì, có màu sắc ra sao. Điều này khiến tứ thơ của Nguyễn Khuyến thêm trừu tượng và dường như đó cũng là tâm trạng bất biến của người viết. “Một tiếng trên không ngỗng nước nào?”, câu thơ mang một nỗi buồn man mác, khi âm thanh của mùa thu là một tiếng ngỗng trời xa lạ, cái xa lạ khiến lòng người thi nhân thổn thức. Nguyễn Khuyến viết bài thơ với cảm hứng từ một đêm thu huyền diệu, nhưng cũng chính trong đêm thu ấy mà niềm thi hứng lại mang nỗi niềm u uẩn. Nhân hứng cũng vừa toan cất bútNghĩ ra lại thẹn với ông Đào Trước cảnh thu đẹp mà buồn man mác, Nguyễn Khuyến đã bộc lộ nỗi lòng mình. Với Nguyễn Khuyến cũng như với các nhà thơ chân chính, thơ sẽ luôn gắn liền với nhân cách. Nhân cách lớn thì thơ lớn. Khi rung động trước cảnh đêm thu, toan cất bút làm thơ, Nguyễn Khuyến lại cảm thấy “thẹn với ông Đào”. Ông Đào Nguyễn Khuyến nhắc đến là Đào Tiềm – nhà thơ nổi tiếng của Trung Quốc xưa kia. Ông thẹn bởi so với “ông Đào” vì cái khí tiết của ông trong giới quan trường Trung Hoa khi dứt khoát từ quan. Nghĩ về mình, Nguyễn Khuyến làm quan trong thời buổi khó tránh khỏi việc là tay sai của giặc Pháp. Bởi vậy, khi đã về quê sống ẩn dật, ông vẫn luôn ân hận về những năm làm việc trong bộ máy chính quyền thối nát tàn bạo thời ấy. Như vậy, phân tích Thu vịnh ta không chỉ thấy một bức tranh mùa thu đẹp huyền ảo mà còn thấy được tấm lòng chân thực cũng như niềm u uẩn một nhà thơ, một nhân cách lớn Nguyễn Khuyến. Một lần nữa cần khẳng định rằng “Thu vịnh” là một bài thơ thơ viết về mùa thu. Qua bài thơ, bức tranh mùa thu hiện lên thật thanh đạm, uyển chuyển và cũng thật huyền ảo. Bên cạnh đó, “Thu vịnh” còn là nỗi lòng tha thiết của nhà thơ đối với quê hương đất nước. Bởi vậy, phân tích Thu vịnh ta như thấy, Nguyễn Khuyến miêu tả vẻ đẹp của đêm mùa thu và cũng là bộc bạch những nỗi niềm sâu kín. Qua bài thơ “Thu vịnh” người đọc sẽ cảm nhận được vẻ đẹp thiên nhiên của làng quê Việt Nam, từ đó càng thêm yêu quý quê hương mình. Có thể bạn quan tâm🌼Tự Tình 2🌼 Nội Dung Bài Thơ, Nghệ Thuật, Phân Tích Phân Tích Bài Thơ Thu Vịnh Đặc Sắc – Mẫu 4 Nguyễn Khuyến- một nhà thơ của làng cảnh Việt Nam, những khung cảnh, đời sống của làng quê được ngòi bút tinh tế của ông khắc lên vừa có hồn lại vừa vẻ nên được những bức ảnh làng quê vô cùng lãng mạn, trữ tình. Bằng ngòi bút tả cảnh ngụ tình đã khiến cho biết bao tác phẩm của ông đi vào lòng người. Đặc biệt là chùm thơ thu, với Thu điếu, Thu vịnh, Thu ẩm đã để lại những dấu ấn khá sâu đậm và đi vào lòng người bằng những hình ảnh, những nét đặc trưng tiêu biểu của mùa thu. Và với bài thơ Thu vịnh, Nguyễn Khuyến cho thấy một tâm sự u hoài, một tấm lòng xót xa trước cảnh, kín đáo, bày tỏ một tình cảm yêu nước chân thành. Trời thu xanh ngắt mấy từng cao,Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu. Ở đây, khác hẳn với những trời thu trong “Thu điếu” và “Thu ẩm”, trời thu của Thu vịnh được mở đầu là một khung cảnh cao vút và thăm thẳm của trời thu, và xen vào đó là cái se se lạnh của mùa thu. Với cái nền là bầu trời bao la “xanh ngắt”, “ mấy tầng cao” nổi bật lên hình ảnh thanh tú của cần trúc đang đong đưa khe khẽ trước gió thu. Và hình ảnh động của gió hắt hiu như chứa chất tâm trạng bên trong. Mở đầu như vậy khiến cho người đọc có thể phần nào thấy được một nỗi lòng đầy lo âu. Sự lay động rất nhẹ của cần trúc càng làm tăng thêm sự lặng thinh, sâu thẳm của bầu trời. Hai câu đề chấm phá đường nét phong cảnh đơn sợ, thanh thoát nhưng hoà điệu nhịp nhàng với tâm hồn tác giả. Nhà thơ đã vẽ lên một khung cảnh trời thu vừa có cảnh thực là vừa có hồn thu ở trong cảnh. Nước biếc trông như tầng khói phủSong thưa để mặc bóng trăng vào. Nước biếc là màu nước đặc trưng của mùa thu khi khí trời bắt đầu se lạnh. Sáng sớm và chiều tối, trên mặt ao, mặt hồ có một lớp sương mỏng trông như khói phủ làm cho người đọc có cảm giác cảnh mùa thu được chen lẫn với màu khói. Và chính cái cảnh mặt nước khói sương bình thường ấy qua con mắt và tâm hồn thi sĩ đã trở thành một dáng thu ngâm vịnh. Tầng khói phủ khác làn khói phụ vì sương đã trở nên dày hơn, nhiều lớp hơn, có chiều cao, độ sâu, như chất chứa cái gì đó ở bên trong. Chỉ bằng vài nét chấm phá nho nhỏ của mùa thu đã khiến cho mùa thu như có hồn và sự hòa quyện giữa cảnh thu và lòng người đi vào trong lòng người đọc. Hình ảnh song thưa gợi ý thanh thoát, cởi mở, két hợp với hình ảnh ánh trăng – hình ảnh quên thuộc đều có ở mỗi làng quê, góp phần vừa tạo nên cảm giác gần gũi, vừa tạo cho người đọc có được có cảm giác thiên nhiên luôn luôn hài hòa và gần gũi với nhau. Nếu ở câu trên là một trạng thái có chiều cao, có độ sâu thì ở câu này lại là một trạng thái mở ra thành một bề rộng, giới hạn bởi khung cửa sổ song thưa mà vẫn cứ mênh mông ở ý nghĩa bên trong, ở tinh thần và âm điệu, nhưng trạng thái nào thì cũng đều tĩnh mịch và chất chứa suy tư. Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái,Một tiếng trên không, ngỗng nước nào? Nếu như cảnh vật ở 4 câu thơ trên được miêu tả qua con mắt nhìn có vẻ khách quan, đầy cảm xúc của trái tim. Nghệ thuật đảo ngữ làm nổi bật hình ảnh “mấy chùm” hoa và “một tiếng” ngỗng. Hình ảnh “hoa năm ngoái” có sức gợi tả mạnh; “hoa năm ngoái” có nghĩa là hoa vẫn là hoa y như năm ngoái mà nước hôm nay thì đã trở thành “nước nào”. Và tiếng ngỗng ở đây, về nghệ thuật, là lấy cái động để diễn tả cái tĩnh. Cảm giác khi nghe tiếng ngỗng trên không văng vẳng mà giật mình băn khoăn tự hỏi ngỗng nước nào? Mặc dù âm thanh ấy đã quá quen thuộc mỗi độ thu về. Và nếu như 4 câu thơ trên sự hòa quyện giữa thiên nhiên và con người có sự kết hợp hài hòa thì đến 2 câu thơ này, là một nỗi u uất của lòng người trước cảnh vật thiên nhiên, là nỗi niềm xót xa, nẫu ruột, chết lòng. Và rồi đến 2 câu thơ kết của của bài thơ là cảm hứng và nỗi thẹn của nhà thơ Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào. “Nhân hứng” ở đây chính là hứng làm thơ trước cảnh mùa thu, “toan cất bút” định không viết nhưng trước cảnh đẹp thì lại tạo được hứng khởi để viết. “Nghĩ ra” tức là ý thức, là lý trí, là tỉnh. Nguyễn Khuyến rất say mà rất tỉnh. Ông say trước cảnh đẹp của mùa thu, nhưng ông vẫn tỉnh trước lương tâm của mình. Cho nên, ông nói được là thẹn. Nhưng thẹn với ai? Có lẽ thẹn vì tài thơ thua kém hay thẹn vì mình chưa có được nhân cách trong sáng và khí phách cứng cỏi như Đào Tiềm? Với hướng văn đi từ cảnh đến tình, từ tình đến người và rồi là cái kết có chút lẳng lơ nhưng mà lại vô cùng kín đáo ẩn chứa rất nhiều suy tư của người đọc Xem thêm phiên bản 👉 Bạn Đến Chơi Nhà Chế Phân Tích Bài Thơ Thu Vịnh Hay Nhất – Mẫu 5 Thiên nhiên mùa thu của quê hương Việt Nam, dưới ngòi bút tài hoa của nhà thơ Nguyễn Khuyến đẹp một cách thanh cao, gợi cảm, hồn hậu, khiến chúng ta càng thêm yêu, thêm quý quê hương đất nước của mình. Nguyễn Khuỵến nổi tiếng với chùm thơ ba bài viết về mùa thu Thu vịnh, Thu điếu, Thu ẩm. Có lẽ Nguyễn Khuyến đã viết theo lối “chùm ba” của Đỗ Phủ – đại thi hào Trung Quốc này nổi tiếng với “Tam biệt”, “Tam lại”…. Theo nhận xét của Xuân Diệu thì trong ba bài thơ mùa thu của Nguyễn Khuyên, bài thơ Thu vịnh mang cái hồn cua cảnh vật mùa thu hơn cả, cái thanh, cái trong, cái nhẹ, cái cao. Thu vịnh mang cái thần của cảnh mùa thu xứ Bắc và cả tâm sự u uấn của thi nhân Trời thu xanh ngắt mấy từng trúc lơ phơ gió hắt biếc trông như tảng khói phủ,Song thưa để mặc bóng trăng vàoMấy chùm trước giậu hoa năm ngoáiMột tiếng trên không ngỗng nước nào?Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào. Bức tranh vẽ mùa thu được tác giả phác họa với không gian thoáng đãng. Nến trời chấm phá một nét nhẹ, mềm của cảnh trúc Trời thu xanh ngắt mấy từng cao,Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu. Mùa thu của xứ Bắc có bầu trời cao xanh trong đã hiện lên trong thơ Nguyễn Khuyến là “trời thu xanh ngắt”. Màu sắc ấy là màu của trời thu mà cũng là cái tình tha thiết của thi nhân đối với mùa thu, đối với quê hương lang cảnh. Không gian mở ra thăm thẳm “mấy tầng cao”, một cần trúc trúc chứ không phải là tre vươn lên trên nền trời thu “xanh ngắt”. Nét cong mềm của “cần trúc” vươn lên một cách thanh cao, không ủy mị như rặng liễu đìu hiu buông xuống trong thơ mùa thu của Xuân Diệu. Từ láy “lơ phơ” gợi tả vẻ thưa thớt của những lá trúc lay động bởi gió heo may mùa thu. Từ láy “hát hiu” gợi được sự rung động của cành trúc, hay là sự rung động của tâm hồn thi nhân trước cảnh thu, trời thu đượm buồn? Bức tranh mùa thu trong Thu vịnh cứ được thêm hòa sắc mới, đường nét, hình ảnh mới Nước biếc trông như tầng khói phủSong thưa để mặc bóng trăng vào Hình ảnh mùa thu được pha thêm màu “nước biếc”, thêm một sắc xanh tha thiết nữa, màu của áo thu trong xanh, với “khói phủ” nhạt nhòa. “Khói” dãy gợi nhứ “khói sóng” trong thơ Thối Hiệu “Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai. Cảnh đêm thu thật là huyền diệu. Lại thêm có trăng. Thi nhân mở ra đón trăng “Song thưa để mặc bóng trăng vào”. Trong đêm thu thanh tĩnh, trăng là người bạn tri kỉ của thi nhân. Có ánh trăng thu, bức tranh mùa thu trong thơ thêm sáng. Mọi vật trong đêm thu được pha thêm ánh trăng huyền ảo, mộng mơ. Cảnh thu thêm huyền hoặc, từ màu hoa cho đến tiếng chim Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoáiMột tiếng trên không ngỗng nước nào? Hoa mùa thu không đổi, không có sắc màu vì khói phủ nhạt nhòa hay nhà thơ mất hết ý niệm về thời gian? “Mấy chùm trước giậu” làm sao biết được đó là hoa gì, màu sắc như thế nào. Chỉ biết đó là “hoa năm ngoái”. Tứ thơ của Nguyễn Khuyến còn trừu tượng hơn, ở đây chẳng có hoa đào, hoa cúc gì cả. Hình ảnh “hoa năm ngoái” thể hiện thời gian ngưng đọng, tâm trạng bất biến của thi nhân. Câu thơ thể hiện một nỗi buồn man mác. Âm thanh mùa thu là một tiếng ngỗng trời xa lạ “ngỗng nước nào”. Tiếng ngỗng trời lạnh cả không gian mùa thu đã làm thổn thức nỗi lòng của thi nhân. Đêm thu huyền diệu dã gợi cảm hứng cho nhà thơ. Thi hứng cũng chợt đến trong nỗi niềm u uẩn của thi nhân Nhân hứng cũng vừa toan cất ra lại thẹn với ông Đào. Trước cảnh thu huyền diệu, nhà thơ đã bộc lộ trực tiếp nỗi lòng của mình. Theo quan điểm của Nguyễn Khuyến mà cũng là quan điểm của các nhà thơ chân chính, thơ gắn liền với nhân cách, nhân cách lớn thì thơ lớn. Rung động trước mùa thu, cất bút định làm thơ, Nguyễn Khuyến cảm thấy “thẹn với ông Đào”. Ông Đào ở đây tức là Đào Tiềm Đào Uyên Minh, một nhà thơ nổi tiếng ở Trung Quốc thời Lục Triều. Ông đỗ tiến sĩ, ra làm quan, rồi chán ghét cảnh quan trường thối nát đã treo ấn từ quan, lui về ẩn dật và có bài Qui khứ lai từ rất nổi tiếng. Sao cụ Nguyễn lại “thẹn” với ông Đào? Thái độ này chưa từng thấy đối với các thi nhân cổ kim. về khoa bảng, ông Đào đỗ tiến sĩ, cụ Nguyễn cũng đỗ tiến sĩ, cụ Nguyễn lại còn có Tam Nguyên, người đời gọi cụ là Tam Nguyên Yên Đổ. Về tài học, thơ của Nguyễn Khuyến kém gì thơ Đào Uyên Minh? Nguyễn Khuyến là một trong những nhà thơ cổ điển lớn nhất của nước nhà được Xuân Diệu phong là “Nhà thơ của quê hương làng cảnh Việt Nam” và hết lời ngợi ca. Có lẽ cụ Nguyễn “thẹn với ông Đào” là về khí tiết. Cụ Nguyễn thiếu cái dũng khí của ông Đào, người đã tư quan một cách dứt khoát, trở thành một nhân vật lừng danh về khí tiết trong giới quan trường Trung Hoa. Còn Nguyễn Khuyến thì lúng túng khi ra làm quan thời đó ra làm quan tránh sao khỏi là tay sai của giặc Pháp và lừng khừng khi đồng cảm của người đời. Đã về ẩn dật rồi, cụ Nguyễn vẫn còn chưa nguôi ân hận về những năm tham gia guồng máy chính quyền thối nát tàn bạo thời bấy giờ. Câu thơ của một tấm lòng chân thực là nỗi niềm u uẩn của một nhân cách lớn, của một nhà thơ lớn. Thu vịnh là một bài thơ hay viết về mùa thu cua tác giả Nguyễn Khuyến. Bức tranh thu với màu sắc thanh đạm, đường nét uyển chuyển, không gian cao rộng, cảnh vật huyền ảo dưới ánh nắng trắng trong thể hiện nỗi lòng tha thiết của nhà thơ đối với quê hương đất nước. Thiên nhiên mùa thu của làng quê Việt Nam, dưới ngòi bút tài hoa của thi sĩ Nguyễn Khuyến đẹp một cách thanh cao, gợi cảm, hồn hậu, khiến mỗi chúng ta càng thêm yêu, thêm trân quý quê hương đất nước của mình. Dưới đây là bài văn mẫu phân tích chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến trong chương trình Ngữ văn cấp 3. Các bạn hãy sử dụng tham khảo để bài làm văn của mình sâu sắc và sáng tạo nhé!Mở bàiChi tiết phần thân bàiLuận điểm 1 phân tích bài Thu điếuLuận điểm 2 phân tích bài Thu ẩmLuận điểm 3 phân tích bài thơ Thu vịnhPhần kết bài chi tiếtMùa thu luôn là một trong những mùa tạo nhiều cảm hứng cho các nhà thơ nhà văn sáng tác nên những tác phẩm bất hủ. Mỗi tác giả đều có những góc nhìn khác nhau về mùa thu. Phân tích chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến, độc giả sẽ cảm nhận được vẻ đẹp thú vị của mùa thu cũng như thấy được tài năng của tác giả. Mở bài Tác giả Nguyễn Khuyến, tên thật là Nguyễn Thắng. Ông được biết đến là một vị quan có phẩm chất thanh cao và thanh liêm, chính trực. Trong dân gian, đã có rất nhiêu gia thoại thú vị kể về sự gắn bó của nhà thơ Nguyễn Khuyến với người dân. Không chỉ là một vị quan chính trực, hết lòng vì nhân dân, Nguyễn Khuyến còn là một người có tâm hồn nhạy cảm, giàu cảm xúc luôn rộng mở và gắn bó với thiên nhiên, làng quê và quê hương đất nước. Quá trình phân tích chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến, chúng ta sẽ cảm nhận rõ hơn màu sắc thu ở đồng bằng Bắc bộ. Chùm thơ thu là những bức tranh thu đặc sắc, với ngôn ngữ giàu tính biểu cảm, thể hiện tình yêu thiên nhiên tha thiết của tác giả. Chi tiết phần thân bài Luận điểm 1 phân tích bài Thu điếu Nhắc đến Nguyễn Khuyến độc giả sẽ nhớ ngay đến chùm thơ thu gồm 3 bài Thu điếu, Thu vịnh và Thu ẩm. Mỗi bài thơ là một bức tranh thu với nét đẹp duyên dáng không giống nhau. Trước hết, các bạn hãy cùng phân tích và tìm hiểu về bài thơ Thu điếu. “Ao thu lạnh lẽo nước trong veo, Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo. Sóng biếc theo làn hơi gợn tí, Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo. Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt, Ngõ trúc quanh co khách vắng teo. Tựa gối, buông cần lâu chẳng được, Cá đâu đớp động dưới chân bèo”. Mở đầu bài thơ, tác giả miêu tả ao thu. Chỉ miêu tả mặt ao thôi nhưng nhà thơ đã dùng khá nhiều từ để vẽ lên. Đó là “lạnh lẽo”, “trong veo”, “sóng biếc” và “gợn tí”. Có thể thấy, những từ này đều có điểm chung là sự thể hiện sự vắng lặng, cô độc và lạnh lẽo. Đúng vậy, mùa thu tới thường mang theo không khí lạnh, khiến thời tiết hơi se lạnh. Và dường như cái lạnh của thiên nhiên cũng khiến cho lòng người cảm thấy “lạnh lẽo” hiu quạnh. Ở đây, ao thu không còn mang dáng vẻ lãng mạn, dịu dàng nữa mà choáng ngợp bởi nỗi cô độc trong lòng người. Có lẽ chính vì thế mà tác giả đã gieo vần “eo” với một loạt các tính từ xuất hiện ở các câu như “lạnh lẽo”, “trong veo”, “bé tẻo teo”, “khẽ đưa vèo”. Ở đây, để miêu tả vẻ hiu quạnh, mênh mang của bức tranh thu này, nhà thơ Nguyễn Khuyến còn sử dụng bút pháp lấy động tả tĩnh. Tác giả vẽ chiếc thuyền trôi lững lờ chậm chạm mà như không trôi, nhưng chiếc lá lại rơi xuống khẽ đưa vèo đã tạo nên sự cao trào về vẻ tĩnh lặng. Sau khi quan sát mặt nước, tác giả chuyển hướng nhìn lên không gian bầu trời và mặt đất. Và ở đâu cũng chỉ thấy một màu cô độc, hoang vắng “Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt Ngõ trúc quanh co khách vắng teo” Tác giả nhìn thấy bầu trời thu xanh ngắt là chỉ có tầng mây lửng lơ, nhẹ nhàng trôi. Điều đó, tạo cảm giác lạc lõng, không biết trôi về đâu, với mục đích gì. Tầng mây ấy giống như con người cô độc đang nhìn kia, cũng đang cảm thấy côn đơn, không tìm ra lối thoát. Đến những ngõ trúc thường có bạn sang chơi nhưng hôm nay cũng vắng teo người không một ai, kể cả người xa lạ. Quá chán chường với những khung cảnh hiện tại, tác giả lại quay về với thú vui câu cá của mình “Tựa gối ôm cần lâu chẳng được Cá đâu đớp động dưới chân bèo” Ở nơi mặt ao vắng lặng, nước lại trong veo thì ắt hẳn câu cá không dễ. Chính vì thế mà tác giả mới bảo là câu lâu chẳng được. Nhưng ở đây nhà thơ đặc biệt đặt hình ảnh “tựa gối ôm cần”. Điều này nhằm nhấn mạnh tâm trạng của chính nhà thơ. Nhà thơ không ung dung ngồi câu cá mà trong lòng vẫn chứa đựng trắc ẩn. Dù đã về quê ở ẩn nhưng trong lòng thi nhân vẫn cảm thấy bế tắc, buồn bã trước thời thế. Luận điểm 2 phân tích bài Thu ẩm “Năm gian nhà cỏ thấp le te, Ngõ tối đêm sâu đóm lập loè. Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt, Làn ao lóng lánh bóng trăng loe. Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt ? Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe. Rượu tiếng rằng hay, hay chả mấy. Độ năm ba chén đã say nhè”. Phân tích chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến, độc giả không thể không nhắc đến tác phẩm “Thu ẩm”. Nếu như Thu điếu là mùa thu câu cá thì Thu ẩm là mùa thu uống rượu. Trong bài Thu ẩm này, độc giả cảm nhận hồn thu, dáng thu và tâm tư của nhà thơ. Nhà thơ giới thiệu nhà, vườn ra tới cánh động, rặng tre, ao vườn, hàng giậu, ngõ xóm. Chúng mang dáng vẻ hun hút, quanh co… Đọc những câu thơ, chúng tả cảm nhận lúc này Nguyễn Khuyến không còn là thi nhân nữa mà trở thành ông già đang khề khà chén rượu để giả sầu. Chính với cái nhìn say sưa đó mà cảnh vật biến đổi đầy thú vị và bất ngờ “Ba gian nhà cỏ thấp le te, Ngõ tối đêm sâu, đóm lập loè. Bức tranh thu của tác giả hiện lên với hình ảnh ngôi nhà cỏ thấp le te. Thấp le te có nghĩa là rất đơn sơ và lụp xụp, mái tranh cũng xác xơ và rách nát. “Đã thế, lại điểm thêm những đốm sáng lập lòe của đom đóm trong ngõi tối đêm sâu, trông càng heo hút, cô quạnh “Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt, Làn ao lóng lánh bóng trăng loe. Bức tranh thu ẩm ấy hiện lên sau lớp sương thu mỏng phớt phơ như làn khói mỏng. Khiến cho khung cảnh trở nên thật mờ nhạt trong màu đêm chập choạng. Đặc biệt, hình ảnh ao thu ở đây không lạnh lẽo trong veo nữa mà là lóng lánh bóng trăng. Có nghĩa là bóng trăng lúc dồn lại, lúc tỏa ra liên tiếp biến dạng, trông thật thú vị nhưng cũng đong đầy cảm xúc “Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt, Mắt lão không vẩy cũng đỏ hoe”. Ban đêm mà thi nhân thấy bầu trời xanh ngắt, còn mắt không vầy mà cũng đỏ hoe. Thật kỳ lạ! Nhưng đó chính xác là diễn tả tâm trạng buồn bã chán chường, tìm đến rượu để giải sầu của tác giả. Chẳng thế mà thi nhân mới nói “Rượu tiếng rằng hay hay chả mấy – Độ năm ba chén đã say nhè”. Không phải say túy lúy mà chỉ say nhè, say nhẹ, say rồi ngủ mà không bê tha, phá phách. Có thể thấy theo Nguyễn Khuyến, mùa thu thật hợp để có thể lè nhè đôi ba chén rượu. Luận điểm 3 phân tích bài thơ Thu vịnh Thu vịnh còn được biết đến là tác phẩm mùa thu ngồi mát ngâm thơ. “Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao, Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu. Nước biếc trông như tầng khói phủ, Song thưa để mặc bóng trăng vào. Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái, Một tiếng trên không ngỗng nước nào? Nhân hứng cũng vừa toan cất bút, Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào”. Có thể thấy, mở đầu bức tranh là hình ảnh bầu trời bát ngát bao la “Trời thu xanh ngắt mấy từng cao, Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu” Nếu như trong Thu điếu, bầu trời có từng lớp mây lửng lỡ trôi, thì bầu trời ở Thu vịnh đã trở nên xanh thăm thẳm, mấy từng cao. Tưởng chừng như rất cao, nhiều tầng tầng lớp lớp. Giữa bầu trời bao la ấy, nổi bật lên hình ảnh một chiếc cần trúc, tức là cây trúc non non với dáng đứng cong cong đang rung rinh, lơ phơ trước gió. Thật là một cảnh tượng vừa động vừa tĩnh đầy cuốn rũ và hấp dẫn của mùa thu. “Nước biếc trông như tầng khói phủ, Song thưa để mặc bóng trăng vào” Sau khi vẽ bức tranh thu qua những chấm phá trên bầu trời, nhà thơ tiếp tục vẽ dáng thu qua những nét dưới mặt đất. Đó là nước biếc của mặt ao lờ mờ như bị một tầng khói bao phủ. Nước biếc lúc này không còn có màu xanh thông thường nữa là lẫn vào màu khói trở nên huyền ảo và mông lung. Tiếp đến là hình ảnh song thưa. Song thưa là cái cửa sổ của căn nhà, khiến khung cảnh trở nên thật bình dị khi để ánh trăng lọt vào. Có thể thấy, cảnh vật ở bốn câu thơ này, được tác giả miêu tả ở các thời điểm khác nhau. Mỗi hình ảnh mang một vẻ đẹp không giống nhau nhưng tất cả đều chưa đựng tâm trạng nỗi lòng của thi nhân. “Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái, Một tiếng trên không, ngỗng nước nào?” Nếu như những câu trên, nhà thơ miêu tả cảnh vật với cái nhìn khách quan thì ở đây, tác giả đã để lộ cảm xúc của bản thân. Tác giả nhìn hoa đang nở trước mắt mà lại cảm nhận thấy đó là hoa năm ngoái. Điều đó có nghĩa, tâm trạng lúc này của tác giả đang lùi về quá khứ. Để rồi bất chợ nghe thấy tiếng ngỗng nước nào. Tác giả không hiểu âm thanh ấy phát ra từ đâu, mặc dù đó là âm thanh rất quen thuộc mỗi độ thu về. “Nhân hứng cũng vừa toan cắt bút, Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào” Nhìn thấy cảnh thu đó, tác giả bỗng hứng muốn làm thơ, nhưng rồi chợt nhận ra tài thơ của mình đang kém. Ông cho rằng mình chưa đủ nhân cách và khí phashc như Đào Tiềm nên cảm thấy thẹn. Một lời thơ kết lấp lửng nhưng kín đáo, đã khiến cho bài thơ thêm chất suy tư, chiêm nghiệm. Phần kết bài chi tiết Qua việc phân tích chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến, độc giả cảm nhận được vẻ đẹp muôn hình muôn vẻ của mùa thu. Mặc dù mỗi bức tranh thiên nhiên thu ấy là một vẻ khác nhau nhưng đều chất chứa những nỗi buồn mênh mang. Từ cảnh vật cho đến tâm trạng con người. Qua đó, chúng ta cũng cảm nhận được tình yêu thiên nhiên đất nước của nhà thơ. Mặc dù đã lui về ở ẩn, vui thú điền viên nhưng tận sâu trong tâm hồn thi nhân vẫn đau đáu nỗi lo vận mện của đất nước. Thông qua cảnh vật, nhà thơ muốn gửi gắm sự xót xa, tiếc nuối trước tình cảnh nước nhà đang bị giặc ngoại xâm. Qua chùm thơ cũng thấy rõ được tài năng thơ ca của tác giả. Chỉ những người có tâm hồn tinh tế mới có thể viết nên những câu thơ lay động lòng người đến vậy. Thêm vào Tải nhạc Chia sẻ Nhạc chờ Báo lỗi Thông tin Vui lòng đăng nhập trước khi thêm vào playlist! Tải Nhạc 128 Kbps Tải Nhạc Lossless Thêm bài hát vào playlist thành công Thêm bài hát này vào danh sách Playlist Bài hát nho nhau tuan khanh do ca sĩ Ngoc Ha thuộc thể loại Tru Tinh. Tìm loi bai hat nho nhau tuan khanh - Ngoc Ha ngay trên Nhaccuatui. Nghe bài hát Nhớ nhau Tuấn Khanh chất lượng cao 320 kbps lossless miễn phí. Ca khúc Nhớ nhau Tuấn Khanh do ca sĩ Ngọc Hạ thể hiện, thuộc thể loại Trữ Tình. Các bạn có thể nghe, download tải nhạc bài hát nho nhau tuan khanh mp3, playlist/album, MV/Video nho nhau tuan khanh miễn phí tại Lời bài hát Nhớ nhau Tuấn Khanh Lời đăng bởi midumidu Ai có về miền thùy dương Những chiều sương xuống lạnh lùng Gửi *** tôi với người thương Dẫu cách xa muôn vạn trùng dương Những đêm một mình trên Hương Gió lặng chỉ nghe nhớ thương Tôi khóc cuộc tình lãng phai Tiết chiều đón qua lạnh lùng Người ơi có thấu lòng chăng Gối ánh trăng mơ về người thương Những đêm bên dòng Hương Giang Dòng sông nuôi bằng mối tình Chừ còn xa nhau Thì còn mãi kiếp sầu đau Chờ nhau còn đâu nối tiếp ngày sau Nhớ em gọi tên chỉ nghe lá rớt bên thềm Nhiều đêm thầm mơ những cuộc tình êm đềm Nhưng đã muộn rồi còn đâu Kiếp này đã lỡ rồi Mà lòng còn vương vấn sầu đau Gió, gió đông thôi đừng lạnh nữa có nghe mưa tạnh đêm rồi Làn mi khép lại xa xôi

nhân hứng cũng vừa toan cất bút